Cần tạo ‘sân chơi’ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái

"Tôi cho rằng cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái, dựa trên hai hướng song song vừa kích cầu, vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung. Nhà nước cần tập trung hoàn thiện thể chế, tạo ra một "sân chơi" và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái" - ông Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường - nêu quan điểm trong tọa đàm sáng 27/8, tại Báo Tiền Phong. 
report “Tấm hộ chiếu xanh” cho phát triển bền vững

Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập Báo Tiền Phong:

Biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang gây ra những hệ lụy ngày càng nặng nề như nắng nóng cực đoan, mưa lũ bất thường, ô nhiễm không khí, rác thải nhựa tràn lan. Chỉ trong một năm, Việt Nam liên tiếp hứng chịu siêu bão Yagi khiến 345 người chết và mất tích, thiệt hại 84.000 tỷ đồng, và mới đây bão số 5 gây thiệt hại nặng ở Nghệ An - Hà Tĩnh. Điều đó cho thấy thách thức môi trường không còn xa vời mà là thực tế cấp bách.

Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập Báo Tiền Phong.

Trong bối cảnh này, sản xuất và tiêu dùng bền vững trở thành yêu cầu bắt buộc. Doanh nghiệp phải đổi mới sản xuất, giảm phát thải, tiết kiệm tài nguyên; người tiêu dùng cần ưu tiên sản phẩm xanh, thân thiện môi trường. Đây cũng là định hướng lớn mà Đảng và Nhà nước đã khẳng định nhằm xây dựng nền kinh tế xanh, tuần hoàn.

Nhãn sinh thái chính là “tấm hộ chiếu xanh” giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiếp cận người tiêu dùng có trách nhiệm, đồng thời mang lại cơ sở lựa chọn an toàn, chất lượng cho người tiêu dùng. Thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua nhãn sinh thái là sự kết hợp giữa trách nhiệm doanh nghiệp, lựa chọn thông minh của người dân và vai trò hỗ trợ từ Nhà nước.

Quang cảnh tọa đàm.

Tọa đàm sẽ là diễn đàn trao đổi, chia sẻ giải pháp, từ đó lan tỏa giá trị của nhãn sinh thái, góp phần bảo vệ môi trường xanh, sạch, bền vững.

report Nhãn sinh thái - động lực cho sản xuất xanh, bền vững

Ông Lê Hoài Nam - Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường:

Nhãn xanh, nhãn sinh thái là công cụ chính sách môi trường quan trọng, được nhiều quốc gia áp dụng thành công như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan hay các nước châu Âu. Công cụ này giúp doanh nghiệp chuyển đổi từ sản phẩm gây ô nhiễm sang sản phẩm xanh, đồng thời hỗ trợ người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa thân thiện, bảo vệ sức khỏe.

Ông Lê Hoài Nam - Phó Cục trưởng Cục Môi trường.

Tại Việt Nam, hệ thống pháp lí về nhãn xanh được hình thành từ Luật Bảo vệ môi trường 2005, 2014 và hoàn thiện trong Luật 2020. Năm 2009, chương trình thí điểm được triển khai, tập trung vào hai nhóm sản phẩm: sản phẩm được chứng nhận nhãn xanh Việt Nam và túi ni lông thân thiện môi trường (gồm túi phân hủy và túi tái chế).

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành tiêu chí cụ thể cho các nhóm này, một số doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận nhưng số lượng còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực doanh nghiệp trong nước còn yếu, thiếu nguồn lực đổi mới công nghệ, chính sách ưu đãi chưa rõ ràng, nhiều quy định mới dừng ở luật mà thiếu văn bản hướng dẫn. Chẳng hạn, Luật quy định thuế bảo vệ môi trường 40.000 đồng/kg đối với túi ni lông khó phân hủy, nhằm hạn chế sản xuất và khuyến khích túi sinh học. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cơ sở nhỏ lẻ vẫn trốn thuế và tiếp tục sản xuất loại túi này.

Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã tích hợp các quy định về nhãn sinh thái thành một hệ thống thống nhất - Nhãn sinh thái Việt Nam, đồng thời bổ sung ưu đãi với sản phẩm, dịch vụ xanh. Đáng chú ý, các dự án đầu tư công khi mời thầu sẽ ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường. Đây được coi là bước tiến quan trọng, kì vọng sẽ thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn vào sản xuất xanh, bền vững.

report Chính sách thuế, phí ưu tiên cho sản phẩm, dự án thân thiện môi trường

Ông Trịnh Quang Hưng - Trưởng phòng Thuế tài sản, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường - Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí - Bộ Tài chính:

Chính sách thuế, phí, lệ phí liên quan đến môi trường luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, thể hiện rõ trong các luật, nghị định và quy định cụ thể.

Ông Trịnh Quang Hưng.

Liên quan trực tiếp đến nhãn sinh thái, Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 quy định túi nilon phải chịu thuế từ 10.000 - 50.000 đồng/kg. Theo Nghị định 67/2011/NĐ-CP, túi nilon thân thiện với môi trường không thuộc diện chịu thuế, trong khi các loại túi gây ô nhiễm sẽ bị áp mức thuế cao.

Về thuế thu nhập doanh nghiệp, chính sách hiện hành có nhiều ưu đãi đối với các ngành nghề, dự án bảo vệ môi trường. Doanh nghiệp được miễn thuế với thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải lần đầu, miễn thuế cho các cơ sở xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường, đồng thời được ưu đãi thuế với các dự án đầu tư sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, xử lý chất thải, sản phẩm tiết kiệm năng lượng hay các dự án thực hiện tại địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn.

Ngoài ra, các luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu và phí trước bạ cũng có cơ chế ưu tiên cho những loại nhiên liệu, phương tiện và sản phẩm thân thiện với môi trường.

report Chuyển đổi xanh: Xu thế tất yếu nhưng nhãn sinh thái còn hạn chế

Ông Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường:

Chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu khi thế giới cùng lúc đối mặt ba cuộc khủng hoảng môi trường lớn. Việt Nam đã có khung chính sách khá đầy đủ, từ Văn kiện Đại hội XIII, Nghị quyết 24, Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn đến Chương trình Nhãn sinh thái Việt Nam triển khai từ năm 2009.

Ông Nguyễn Trung Thắng.

Nhận thức tiêu dùng cũng thay đổi khi 86% người Việt sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản phẩm thân thiện môi trường, 62% quyết định mua bị tác động bởi cam kết xanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các FTA và yêu cầu môi trường ngày càng khắt khe từ EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc cùng với xu thế chuyển đổi số, ứng dụng AI đang tạo sức ép và cơ hội cho quá trình chuyển đổi.

Tuy nhiên, kết quả áp dụng nhãn sinh thái sau hơn 20 năm vẫn khiêm tốn. Đến năm 2017, Việt Nam có 17 tiêu chí Nhãn xanh, trong đó 7 tiêu chí áp dụng cho 112 sản phẩm; giai đoạn 2024 - 2025 chỉ thêm 13 sản phẩm được chứng nhận. Người tiêu dùng trong nước vẫn quan tâm nhiều hơn đến an toàn thực phẩm, trong khi rào cản công nghệ, chi phí và thủ tục hành chính tiếp tục là trở ngại lớn.

report Cần hoàn thiện cơ chế để phát triển nhãn sinh thái

PGS,TS. Nguyễn Thế Chinh - nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu:

Câu chuyện về nhãn sinh thái không phải mới, bởi ngay cả trước khi Luật Bảo vệ Môi trường và chính sách thuế, phí môi trường ra đời, vấn đề này đã được đề cập. Tuy nhiên, việc triển khai nhãn sinh thái hiện vẫn còn nhiều khía cạnh cần bàn.

Trước hết phải nói đến vai trò của doanh nghiệp - chủ thể chính trong việc thực hiện nhãn sinh thái. Doanh nghiệp cần có khả năng đáp ứng các tiêu chí, quy định mà nhãn sinh thái đặt ra. Việc chuyển đổi từ sản phẩm chưa có nhãn sang sản phẩm được dán nhãn là cả một quá trình dài và tốn kém.

PGS,TS. Nguyễn Thế Chinh.

Tôi lấy ví dụ, một sản phẩm son làm từ hoa hồng được dán nhãn sinh thái của châu Âu có giá thành cao gấp nhiều lần so với sản phẩm không có nhãn. Để đạt được điều này, doanh nghiệp phải đầu tư toàn diện, từ nguồn nguyên liệu, tiêu chí sản xuất, công nghệ, quy trình đến nâng cao nhận thức. Hay như sản phẩm màn hình máy tính của Nhật Bản, ngoài chứng nhận ISO 9.000 đảm bảo chất lượng sản phẩm, còn có ISO 14.000 gắn với nhãn sinh thái - vừa đảm bảo chất lượng, vừa an toàn cho người dùng. Nhưng để nâng từ ISO 9.000 lên ISO 14.000, doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí và công nghệ rất lớn.

Vấn đề thứ hai liên quan đến thị trường tiêu dùng. Cần có định hướng trong việc quảng bá, xây dựng hình ảnh sản phẩm để thu hút người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm dán nhãn sinh thái.

Yếu tố thứ ba là chính sách. Thực tế, chính sách của Việt Nam thường có độ trễ. Sau khi Luật Bảo vệ Môi trường được ban hành cùng với các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính trong định hướng chuyển đổi xanh, vẫn còn nhiều điểm phải điều chỉnh. Điều này cho thấy dù chính sách về môi trường đã có bước tiến, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn vẫn gặp nhiều điểm nghẽn cần tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ.

Mối quan hệ giữa các chính sách cần được tăng cường để hình thành cơ chế rõ ràng, giúp doanh nghiệp hiểu, nắm vững và thực sự có khả năng áp dụng nhãn sinh thái.

report Người Việt sẵn sàng ủng hộ sản phẩm bảo vệ môi trường

Ông Nguyễn Hoàng Đông - Tổng Giám đốc Công ty CP Stavian phân phối:

Từ ngày đầu thành lập, Stavian đã định hướng rõ ràng phát triển sản phẩm theo tiêu chí xanh, thân thiện môi trường và Nhãn sinh thái, triển khai đồng thời hai hướng: phân hủy sinh học và tái chế. Đây vừa là xu hướng tất yếu của thế giới và Việt Nam, vừa phù hợp với định hướng của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Ông Nguyễn Hoàng Đông.

Để đạt được tiêu chuẩn nhãn sinh thái, chúng tôi có quy trình rà soát và đảm bảo chất lượng sản phẩm - từ nguyên liệu, công nghệ, thiết kế đến phân phối rất nghiêm ngặt. Ví dụ với túi cuộn thực phẩm Stahaus Bio đạt nhãn sinh thái, nguyên liệu được lựa chọn theo tiêu chí an toàn, có khả năng phân hủy sinh học hoặc tái chế, và được kiểm nghiệm chặt chẽ trước khi ra thị trường.

Ban đầu, chúng tôi khá thận trọng vì giá bán cao hơn sản phẩm truyền thống, lo ngại phản ứng của thị trường. Nhưng nhờ sự ủng hộ của người tiêu dùng và xu hướng tiêu dùng xanh ngày càng phát triển, sản phẩm đã được đón nhận và hiện có mặt ở hầu hết hệ thống siêu thị, đại lý, và các sàn thương mại điện tử. Đây là tín hiệu tích cực cho thấy người Việt sẵn sàng ủng hộ sản phẩm bảo vệ môi trường.

report Hai trụ cột phát triển thị trường nhãn sinh thái

Ông Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường:

Tôi cho rằng cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái, dựa trên hai hướng song song vừa kích cầu, vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung.

Ông Nguyễn Trung Thắng.

Nhà nước cần tập trung hoàn thiện thể chế, tạo ra một ‘sân chơi’ và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái. Phải xây dựng các nhóm tiêu chí phù hợp cho từng ngành hàng, gắn với lộ trình chuyển đổi xanh và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, để doanh nghiệp dễ áp dụng, còn người mua dễ nhận biết.

Rất cần có chính sách và pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình gắn nhãn sinh thái. Điều quan trọng là có một khung quy định rõ ràng, đồng bộ, ổn định, đi kèm với hướng dẫn thực thi cụ thể, giúp doanh nghiệp chủ động đáp ứng tiêu chí, giảm vướng mắc trong chứng nhận và đưa sản phẩm ra thị trường.

Ngoài ra, tôi đề nghị cải cách thủ tục hành chính để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các dự án hỗ trợ, cũng như các nguồn vốn vay ưu đãi cho phát triển xanh. Việc đơn giản hóa hồ sơ, rút ngắn thời gian xử lí, tăng cường số hóa quy trình sẽ góp phần giảm chi phí tuân thủ, từ đó thúc đẩy cả phía cung lẫn cầu đối với sản phẩm gắn nhãn sinh thái. Nên cân nhắc chuyển giao vai trò cấp chứng nhận nhãn sinh thái cho các tổ chức độc lập, thay vì để cơ quan Nhà nước trực tiếp thực hiện.

report Từ châu Âu đến Việt Nam: Bài học chuyển đổi sang túi sinh thái

Ông Nguyễn Lê Thăng Long - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần nhựa An Phát Xanh:

Trong 16 năm qua, đã có gần 30 doanh nghiệp được cấp chứng nhận cho sản phẩm túi nilon thân thiện môi trường. Sau khi chuyển sang nhãn sinh thái, nhiều doanh nghiệp chưa đăng ký lại dù họ vẫn hoạt động trên thị trường. Tôi nghĩ đó là lí do vì sao hiện nay Việt Nam mới có 7 doanh nghiệp cung cấp sản phẩm gắn nhãn sinh thái.

Công ty chúng tôi sản xuất túi thân thiện môi trường từ năm 2002, chủ yếu xuất khẩu, trong đó châu Âu là thị trường lớn nhất, chiếm 60%, có năm chúng tôi xuất 50.000 - 60.000 tấn sang châu Âu.

Ông Nguyễn Lê Thăng Long.

Vào thời điểm năm 2010-2011, châu Âu bắt đầu hạn chế sử dụng núi nilon thường và chuyển sang túi thân thiện môi trường. Tuy nhiên, sau 15 năm chuyển đổi, châu Âu vẫn gặp khó khăn trong việc sử dụng túi thân thiện.

Năm 2010, Pháp bắt đầu chuyển đổi nhưng tình hình khá khó khăn, khi người dân phải từ bó thói quen để chuyển sang túi giấy, túi dùng nhiều lần, túi phân rã. Nhiều năm sau thị trường mới dần định hình.

An Phát tiếp cận thị trường khá sớm, bắt đầu sản xuất túi thân thiện môi trường từ năm 2014, vì chúng tôi nhìn thấy tương lai.

Ban đầu chúng tôi phải khẩu nguyên liệu từ Đức, sau này chúng tôi mua lại một công ty của Hàn Quốc để làm chủ công nghệ sản xuất.

Cuộc chiến công nghệ khiến giá thành sản phẩm ở mức rất cao. Đến tận năm 2020, khi thị trường bùng nổ, nhiều nhà đầu tư tham gia sản xuất nguyên liệu đã giúp giảm một nửa giá, tạo động lực giúp thị trường phát triển gấp 3-4 lần, dù vẫn chưa đạt được kì vọng của chúng tôi.

Ban tổ chức trao đổi với các diễn giả về vấn đề nhãn sinh thái ở Việt Nam và quốc tế.

Tại Việt Nam, chúng tôi bắt đầu phát triển thị trường từ năm 2018, với sản phẩm AnEco thân thiện môi trường. Đây cũng là sản phẩm chúng tôi xuất khẩu sang châu Âu.

Từ năm 2019, chúng tôi hợp tác với tập đoạn SK Hàn Quốc mở nhà máy sản xuất tại Hải Phòng để làm chủ công nghệ, nhằm nâng cao năng lực cung cấp cho thị trường.

Qua nhiều năm hoạt động trong thị trường, tôi nhận thấy còn nhiều khó khăn giống như ở Pháp, vì không có lối tắt nào cả.

Chúng tôi cũng nhận thấy rằng việc truyền thông về sản phẩm môi trường sẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta nói với người tiêu dùng rằng việc sử dụng túi phân rã để bọc thịt, bọc đồ ăn sẽ không khiến các hạt vi nhựa dính vào đồ ăn để xâm nhập cơ thể, không gây hại như sử dụng túi nilon.

Trong 8 năm phát triển sản phẩm AnEco, chúng tôi thấy rằng các doanh nghiệp quốc tế lớn thường ủng hộ ngay vì họ bán sản phẩm có giá trị cao, việc sử dụng túi sinh thái không ảnh hưởng nhiều đến giá thành của họ và họ muốn xây dựng sản phẩm bền vững.

report Yếu tố vốn, tín dụng xanh và xúc tiến thương mại

Ông Võ Thái Sơn - Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Stavian MP:

Để thúc đẩy sản xuất và kinh doanh sản phẩm thân thiện môi trường, và duy trì sự ổn định, trước hết, cần sự đồng lòng của toàn hệ thống - từ khâu sản xuất, phân phối cho đến người tiêu dùng. Chính sách và hướng dẫn cần rõ ràng, chi tiết hơn.

Ông Võ Thái Sơn.

Bên cạnh đó, hỗ trợ vốn, tín dụng xanh và xúc tiến thương mại là những yếu tố rất cần thiết. Doanh nghiệp cần được tạo điều kiện tiếp cận các gói vay ưu đãi, quỹ phát triển xanh để đầu tư công nghệ sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng; đồng thời được hỗ trợ quảng bá sản phẩm xanh ở cả thị trường trong nước và quốc tế.

Người tiêu dùng cần hiểu vì sao sản phẩm xanh có giá cao hơn và lợi ích thực sự của chúng đối với sức khỏe, môi trường. Khi nhận thức thay đổi, nhu cầu sẽ tăng, từ đó thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất nhiều hàng hoá hơn, hình thành vòng phát triển bền vững. Đặc biệt, cần triển khai việc hạn chế sản xuất, nhập khẩu và sử dụng sản phẩm nhựa, xốp dùng một lần trên toàn quốc cần được triển khai sớm để giảm ô nhiễm và khuyến khích lối sống xanh.

report Tăng chỉ số niềm tin của khách hàng với sản phẩm nhãn sinh thái

Bà Trịnh Thị Hồng Loan - đại diện Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam:

Chúng ta cần hoàn thiện thành lang pháp lí, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để họ tham gia sản xuất nhiều sản phẩm được gắn nhãn sinh thái hơn. Muốn như vậy, cần tuyên tuyền làm rõ quy trình công nhận sản phẩm ra sao, hỗ trợ giảm thuế thế nào… Một số quốc gia có chính sách hỗ trợ 50% chi phí gắn nhãn sinh thái cho sản phẩm. Trong khi chúng ta, trong vòng 2 năm chỉ có 13 doanh nghiệp tham gia sản phẩm nhãn sinh thái là con số rất nhỏ.

Cùng với đó cần đẩy mạnh truyền thông để doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhất là người trẻ hiểu lợi ích của sản phẩm xanh sẽ giảm thiểu hoá chất độc hại đồng thời bảo vệ môi trường. Trong hệ thống của chúng tôi, một số doanh nghiệp đã ưu tiên, chú tâm đến sản phẩm gắn nhãn sinh thái, kèm chương chình giảm giá nhằm nâng cao sức mua.

Bà Trịnh Thị Hồng Loan.

Hiệp hội với trách nhiệm của mình đã khuyến cáo, chỉ đạo các hội viên giám sát chuỗi cung ứng hàng hoá, ưu tiên các nhà cung cấp sản phẩm gắn nhãn sinh thái. Quan tâm kết nối các cơ quan có thẩm quyền phát triển, mở rộng nguồn hàng, tăng tính cạnh tranh, tăng chỉ số niềm tin của khách hàng đối với sản phẩm thân thiện môi trường.

Thời gian qua Hiệp hội cũng đã phối hợp cơ quan quản lí thị trường của Bộ Công thương và các tỉnh, thành phố kiểm tra, giám sát các sản phẩm nhằm tính minh bạch, đảm bảo uy tín, thương hiệu cho các sản phẩm đã được gắn nhãn.

Và cuối cùng cần tăng cường thúc đẩy tiêu dùng sản phẩm xanh đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền người dân hạn chế tối đa xả thải túi ni lông ra môi trường.

report Tạo động lực phát triển thị trường sản phẩm xanh

PGS, TS. Nguyễn Thế Chinh - nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn Biến đổi khí hậu:

Cần có những chính sách đặc thù, mang tính thời điểm để thúc đẩy phát triển sản phẩm xanh, như các chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xanh.

Trên thực tế, việc tạo lập thị trường cho sản phẩm xanh vẫn còn nhiều khó khăn, chưa hình thành được một thị trường nền tảng. Vì thế, cần có những giải pháp đột phá để thu hút người tiêu dùng, như tăng cường truyền thông, quảng bá sản phẩm xanh.

Ngoài ra, phải hoàn thiện hành lang pháp lí, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh, như các quy định về môi trường, tiêu chuẩn sản phẩm xanh.

PGS, TS. Nguyễn Thế Chinh.

Vai trò của Nhà nước là rất quan trọng, nên cần đi đầu trong việc sử dụng, mua sắm sản phẩm xanh, từ đó tạo động lực cho thị trường phát triển. Có sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các bên liên quan như doanh nghiệp, người tiêu dùng và cơ quan quản lí để thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh.

Để tạo niềm tin đối với người tiêu dùng, phải tăng cường giám sát, xử lí nghiêm các hành vi vi phạm như sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng nhái để bảo vệ thị trường sản phẩm xanh.

PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn Biến đổi Khí hậu:

Cần có những chính sách đặc thù, mang tính thời điểm để thúc đẩy phát triển sản phẩm xanh, như các chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xanh.

Trên thực tế, việc tạo lập thị trường cho sản phẩm xanh vẫn còn nhiều khó khăn, chưa hình thành được một thị trường nền tảng. Vì thế, cần có những giải pháp đột phá để thu hút người tiêu dùng, như tăng cường truyền thông, quảng bá sản phẩm xanh.

Ngoài ra, phải hoàn thiện hành lang pháp lí, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh, như các quy định về môi trường, tiêu chuẩn sản phẩm xanh.

Ban Tổ chức và các khách mời trao đổi tại tọa đàm.

Vai trò của Nhà nước là rất quan trọng, nên cần đi đầu trong việc sử dụng, mua sắm sản phẩm xanh, từ đó tạo động lực cho thị trường phát triển. Có sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các bên liên quan như doanh nghiệp, người tiêu dùng và cơ quan quản lí để thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh.

Để tạo niềm tin đối với người tiêu dùng, phải tăng cường giám sát, xử lí nghiêm các hành vi vi phạm như sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng nhái để bảo vệ thị trường sản phẩm xanh.

report Chính sách thuế mới sẽ bổ sung ưu đãi cho phát triển xanh

Ông Trịnh Quang Hưng - Trưởng phòng Thuế tài sản, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường - Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí - Bộ Tài chính:

Trên thực tế, chính sách về thuế không quá vướng mắc, đã được quy định trong luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và thuế bảo vệ môi trường.

Ông Trịnh Quang Hưng.

Nghị định số 31/2021/NĐ-CP quy định cụ thể về danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư, trong đó cơ bản các ngành nghề bảo vệ môi trường được Bộ Nông nghiệp và Môi trường cấp chứng chỉ xanh thuộc diện ưu đãi. Khi doanh nghiệp, cá nhân khai nộp thuế theo giấy chứng nhận ngành nghề đã được cấp sẽ được hưởng ưu đãi thuế.

Trong mảng mua sắm chi tiêu công liên quan đến tăng trưởng xanh, chúng ta đã có luật bảo vệ môi trường, dù trong quá trình áp dụng có phát sinh mội số vấn đề ngoài ý muốn. Bộ Tài chính đang xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân để trình Quốc hội vào tháng 10 tới, trong đó sẽ bổ sung một số quy định về ưu đãi liên quan đến phát triển xanh, phát triển bền vững, đáp ứng mục tiêu trung hoà carbon, net zero (phát thải ròng bằng 0) để phù hợp với xu hướng thế giới.

Ngoài các ưu đãi thuế hiện có về bảo vệ môi trường, Luật sẽ bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế, bao gồm thu nhập từ tín chỉ carbon, trái phiếu xanh, chuyển nhượng tín chỉ carbon và trái phiếu xanh… Chính sách về thuế của Việt Nam luôn dành quan tâm hàng đầu cho vấn đề bảo vệ môi trường.

report Ba nhóm chính sách thúc đẩy sản phẩm thân thiện môi trường

Ông Lê Hoài Nam - Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường:

Hiện có ba nhóm chính sách lớn nhằm tháo gỡ rào cản, khuyến khích doanh nghiệp tham gia sản xuất và giúp người tiêu dùng tiếp cận sản phẩm thân thiện môi trường.

Thứ nhất, nhóm chính sách quản lý hành chính: tập trung vào các quy định mang tính bắt buộc, cấm hoặc hạn chế sản phẩm có nguy cơ gây ô nhiễm. Năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định 08, đưa ra lộ trình cụ thể nhằm loại bỏ dần các sản phẩm nhựa dùng một lần. Theo đó, từ sau ngày 31/12/2030, Việt Nam sẽ cấm hoàn toàn sản xuất và tiêu dùng nhựa dùng một lần.

Ông Lê Hoài Nam.

Từ đầu năm 2026, các địa phương có trách nhiệm triển khai việc cấm sử dụng loại nhựa này, cùng với bao bì khó phân hủy, tại siêu thị, trung tâm thương mại, khách sạn, khu du lịch… Cơ quan quản lí trung ương và địa phương sẽ triển khai khẩn trương, đồng thời doanh nghiệp cũng phải gấp rút phát triển sản phẩm thay thế để cung ứng cho thị trường.

Thứ hai, nhóm chính sách kinh tế bao gồm các khoản thuế, phí và ưu đãi tài chính. Luật Thuế bảo vệ môi trường đã được ban hành, Bộ Tài chính hiện chủ trì phối hợp sửa đổi luật theo hướng bổ sung một số nhóm hàng hóa có nguy cơ gây ô nhiễm vào đối tượng chịu thuế. Ngoài ra, còn có chính sách ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xanh.

Thứ ba, nhóm chính sách phát triển thị trường: hiện quy mô thị trường sản phẩm nhãn sinh thái tại Việt Nam còn rất nhỏ. Trước đây có khoảng 100 loại sản phẩm được gắn nhãn, nhưng sau đó chỉ có thêm một số doanh nghiệp tham gia. Trong khi đó, năm 2016, tổng giá trị thị trường các sản phẩm, dịch vụ được Nhật Bản gắn nhãn sinh thái đã vượt 44 tỉ USD, và hiện nay chắc chắn còn lớn hơn nhiều. So sánh này cho thấy thị trường của Việt Nam vẫn còn quá nhỏ bé, đòi hỏi những giải pháp và chính sách thực tế, hiệu quả hơn.

report Bảo vệ người dân và doanh nghiệp

Nhà báo Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập Báo Tiền Phong:

Thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái ở Việt Nam hiện còn nhỏ lẻ; nhiều doanh nghiệp ưu tiên xuất khẩu. Hành lang pháp lý về cơ bản đã có, nhưng khâu tiếp cận và thực thi, đặc biệt là vốn tín dụng xanh vẫn vướng.

Nhà báo Phùng Công Sưởng.

Tại tọa đàm, các chuyên gia đã đề xuất các giải pháp trọng tâm, hữu ích bao gồm: Hoàn thiện thể chế, luật pháp; phát triển và kết nối thị trường; tuyên truyền, thay đổi hành vi.

Trong thời gian tới, xu hướng chuyển đổi xanh là tất yếu và không thể né tránh. Đây không chỉ là việc bảo vệ môi trường phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế, mà còn là bảo vệ sự phát triển của chính mỗi doanh nghiệp và người dân.

Tọa đàm có sự tham gia thảo luận của các vị khách mời: Ông Lê Hoài Nam - Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Ông Trịnh Quang Hưng - Trưởng phòng Thuế tài sản, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường, Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí, Bộ Tài chính. PGS.TS Nguyễn Thế Chinh - nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu. Ông Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Bà Trịnh Thị Hồng Loan - đại diện Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam. Ông Nguyễn Lê Thăng Long - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Nhựa An Phát Xanh. Ông Nguyễn Hoàng Đông - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Stavian Phân phối. Ông Võ Thái Sơn - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Stavian MP.