Đây là con sốnhẩm tính của bà Nguyễn Thị Hằng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Nuôiong Việt Nam khi nói về những rào cản về thủ tục để đàn ong Việt cất cánh pháttriển mạnh hơn.
Hiện kim ngạchcủa ngành nuôi ong đã đạt trên 100 triệuUSD và mật ong Việt Nam đã trở thành sản phẩm từ động vật duy nhất có thể xuất khẩu“thoải mái” vào Mỹ và EU. Nuôi ong đã tạo công ăn việc làm cho trên 35 nghìnnông dân, với 4 nghìn người nuôi ong chuyên nghiệp. Nhìn xa hơn, theo một tínhtoán của Mỹ, giá trị các sản phẩm trồng trọt do ong thụ phấn cao gấp 150 lần sovới sản phẩm ong.
Thế nhưng tạicuộc đối thoại gần đây với Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát, bà Nguyễn ThịHằng cho biết theo Quyết định 47/2005/QQĐ-BNN ngày 22/7/2005 thì cứ vận chuyểntrên 200kg mật ong hay 1 đàn ong ra khỏi huyện phải có giấy kiểm dịch.
Theo nhẩmtính của bà Hằng, với sản lượng 45 nghìn tấn mật ong hàng năm, sẽ cần tới 225nghìn giấy phép để chuyển ra khỏi các huyện. Giả sử cấp 1 giấy phép hết 1 ngàythì cần 225 nghìn ngày, tương đương 616 năm và nếu mất 2 ngày cho 1 giấy phépthì sẽ cần 1.232 năm!
Không chỉ cóvậy, những bất cập về bộ máy, phương tiện kiểm dịch và trình độ chuyên môn, hiểubiết của cán bộ tại các địa phương khiến việc cấp giấy kiểm dịch cho ngành hàngong vô cùng chậm trễ.
“Nhiều khi mậtong, đàn ong cứ chất đống ngoài trời chờ các đơn vị chuyên môn này “loay hoay”mãi mới cấp giấy phép kiểm dịch. Ngoài trời mưa nắng thất thường, có khi ongthì chết còn mật ong thì mất chất. Vậy làm sao có thể đảm bảo mật ong có chấtlượng thượng hạng như danh hiệu đang có được trên trường quốc tế?”, bà Hằngthan.
Một vướng mắckhác là Thông tư 23/2009/TT-BNNPTNT ngày 29/4/2009, trong đó giao Hiệp hội Nuôiong việc xác minh nguồn gốc mật ong, phân biệt rõ ràng mật ong Việt Nam và cácnước khác.
Điều này rấtquan trọng trong bối cảnh mật ong Trung Quốc đang tìm cách “chảy” qua các nướckhác để nhập khẩu vào Mỹ hòng trốn thuế chống bán phá giá. Thông tư cũng là mộttrong những văn bản quan trọng thuyết phục Cơ quan bảo vệ Hải quan Mỹ (CBP), Cụcquản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) và Ủy ban châu Âu trong việc cho phép mậtong Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường này.
Khi EU dỡ bỏlệnh cấm cuối năm 2012 thì các nước khác lập tức cũng dẹp các hàng rào kỹ thuậtđối với việc nhập mật ong Việt Nam, khiến xuất khẩu mật ong tăng vọt từ 20 nghìntấn năm 2012 lên 40 nghìn tấn năm 2013.
Chuyện sẽkhông có gì nếu Thông tư này ghi rõ ràng là có 29 hội viên của Hiệp hội Nuôiong đăng ký kiểm tra sản xuất để xuất khẩu mật ong. Thực tế, hiện nay con số hộiviên của Hiệp hội này đã lên tới 45 và khiến Hiệp hội rất khó khăn trong giảithích với các cơ quan quản lý của Mỹ và EU trong việc chưa có “khai sinh” cho16 thành viên còn lại.
Khi nghe nhữngphản hồi từ đại diện các doanh nghiệp sản xuất và chế biến mật ong, Bộ trưởngCao Đức Phát đã yêu cầu Cục Thú y trả lời.
Tuy nhiên,câu trả lời không đi thẳng vào vấn đề của Cục Thú ý đã bị Bộ trưởng Phát ngắt bằngcách nhắc lại rõ ràng thắc mắc của doanh nghiệp: “Có kiểm dịch thì mới đượcchuyển mà nhiều khi đi tìm cái ông thú y nhà anh thì đàn ong bị phơi nắng chếtmất rồi. Giờ các anh cần xem thế nào?”
Bộ trưởngnêu rõ thực tế: “Nhiều khi kiểm dịch đi chỉ nhìn, mà nhìn thì có thấy virus, vikhuẩn gì đâu. Cùng với việc vướng mắc ởThông tư 23 nữa…Tôi đề nghị đồng chí Cục trưởng làm việc theo tinh thần rất cầuthị và tiếp thu những kiến nghị. Các đồng chí phải nghiên cứu để dỡ bỏ những thủtục không cần thiết, thực sự nếu không có ích gì thì thôi, dẹp bỏ!”
Cục trưởng CụcThú y hứa với Bộ trưởng và Hiệp hội sẽ nghiên cứu lại các văn bản hiện hành vàđề xuất sửa đổi những thủ tục mang tính “hình thức” đang làm rào cản cho việc sảnxuất và chế biến xuất khẩu ngành hàng giàu tiềm năng này.
Theo Đỗ Hương