Nhà thơ song hành với một Văn Cao nhạc sĩ

Văn Cao có nhiều thành tựu về âm nhạc, hội họa và thơ ca, dù thơ ca của ông có phần khiêm tốn hơn. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Văn Cao (15/11/1923-15/11/2023), nhiều chuyên gia trong lĩnh vực văn học đã tập trung tôn vinh những đóng góp của người nghệ sĩ đa tài trong mảng thơ ca.

Sáng tác đỉnh cao khi cơ cực

Hội thảo Văn Cao mùa chữ, mùa người và giới thiệu cuốn tiểu luận - nghiên cứu cùng tên của 21 tác giả được tổ chức sáng ngày 14/11 tập trung chủ yếu vào những đóng góp của ông trong thơ ca. Văn Cao mùa chữ, mùa người cho thấy rằng, nghệ sĩ thiên tài đã để lại cho đời, cho nền nghệ thuật nước nhà, cho các thế hệ sáng tạo và quần chúng cần lao rất nhiều, nhiều về chất lượng chứ không nhiều về số lượng.

Văn Cao - người tiên phong đặt nền móng cho nghệ thuật Việt Nam hòa nhập thời đại

Văn Cao được đánh giá là người tiên phong đặt nền móng cho nền thơ, nền nhạc và gợi ý tưởng cho nền họa, đắp xây nên con đường nghệ thuật Việt Nam hòa nhập thời đại, ngay từ thuở giao thời. Trên bước đường đầu tiên ấy, chính ông là người luôn luôn tự đổi mới mình, cách tân nghệ thuật.

Nhìn vào hành trình thơ của Văn Cao, độc giả có thể thấy sự chuyển động của thơ Việt Nam hiện đại, từ lãng mạn đến tượng trưng và siêu thực. Về thơ, Văn Cao sáng tác không nhiều (khoảng trên dưới 70 bài thơ) nhưng thơ là trường hợp đặc biệt của ông. “Đặc biệt trước hết ở chỗ, thơ Văn Cao chủ yếu được tạo sinh trong năm tháng cơ cực đắng cay nhất của cuộc đời”, PGS.TS Phùng Gia Thế, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 nhận định.

Cuốn sách Văn Cao mùa chữ, mùa người phân tích những đóng góp của người nghệ sĩ thiên tài để lại cho đời, cho nền nghệ thuật nước nhà

Ông cho rằng, thơ Văn Cao có những lúc buồn, có những lúc vui, nhưng cái vui của ông dường như chỉ lóe lên trong thoáng chốc, trong niềm vui vẫn xen cài với niềm âu lo, với những dự cảm mơ hồ của trái tim người nghệ sĩ, với những trăn trở về cuộc đời, thân phận, vận mệnh của đất nước được thể hiện bằng những cách diễn đạt mong manh. “Đường thơ Văn Cao cũng có mùa xuân, nhưng đó là mùa xuân mừng mừng tủi tủi, lóe lên trong thoáng chốc, trong khi nỗi u uẩn bốn mùa trong ông dường như dài mênh mông”, PGS.TS Phùng Gia Thế nêu.

Không thể đơn giản nói đời Văn Cao buồn nhiều hơn vui, nhưng chắc chắn buồn dài hơn vui. Có những giai đoạn dường như ông chỉ nói thầm, ngay cả khi bên ngoài, khi người ta đang có những tiếng thét dữ dội của thời đại, Văn Cao vẫn chỉ là người nhìn vào thế giới bên trong của mình. Với gần 70 tác phẩm thơ, có thể chia hành trình sáng tạo của Văn Cao thành hai thời kỳ: trước và sau năm 1945. Trước năm 1945, tác phẩm của ông đa phần ghi lại những tâm tình cá nhân buồn nhớ vẩn vơ xa vắng.

“Do sự chuyển đổi thời thế, những biến động dữ dội của thời cuộc như nạn đói 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp ở Thủ đô và cả nước đã lay động tâm hồn thi sĩ. Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc mang tính xã hội sâu sắc, ghi lại nỗi đau của dân chúng trong cảnh chết đói thê lương. Ngoại ô mùa đông 46 (in trên Văn Nghệ số 2 tháng 4-5/1948) như một văn bản tiếp nối bài thơ trước nói về một Hà Nội đau thương vùng lên kháng chiến, cùng với đó là những đổi thay và hy vọng”, PGS.TS Ngô Văn Giá cho biết.

Nhà phê bình Ngô Văn Giá ví thơ Văn Cao trong giai đoạn sau như một thứ thơ “chấn thương”, như hệ quả trực tiếp của một trạng thái chấn thương tinh thần trong kiếp sống trần ai của nghệ sĩ. “Đối với Văn Cao, dường như ông không chối bỏ, cũng ít phục hồi chấn thương đã trải, mà phần lớn chấp nhận chấn thương và vượt lên nó. Từ nguồn cảm hứng này, Văn Cao đã để lại nhiều bài thơ hay, trong đó có những bài thơ trác tuyệt: Khuôn mặt em, Quy Nhơn 3, Thời gian”, nhà phê bình khẳng định.

Bên cạnh những bài viết ngợi ca tài năng của Văn Cao, cuốn cuốn tiểu luận - nghiên cứu Văn Cao mùa chữ, mùa người bao gồm các bài thơ viết về, viết tặng Văn Cao của các nhà thơ: Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Duy, Nguyễn Thụy Kha, Hoàng Hưng… và một số tranh minh họa mà Văn Cao đã vẽ trong tiểu thuyết Búp sen xanh và Tuyển tập thơ Victor Hugo.

Mở lối thơ tự do không vần

Một điểm đặc biệt trong thơ Văn Cao là thể loại ông theo đuổi - thơ tự do không vần. Khác với thơ tự do có vần, thơ tự do không vần giải phóng thơ khỏi vần nhưng vẫn đảm bảo nhịp điệu. Nhiều chuyên gia nhận định, thơ Văn Cao đã cho thấy sức sống của quy luật kiệm chữ trong thơ. Toàn bộ thi pháp thơ trung đại Việt Nam và tinh thần Đường thi mà Việt Nam chịu ảnh hưởng đều tôn thờ tinh thần kiệm chữ, nén chữ, kỷ luật chữ.

“Tinh thần kiệm chữ, chắt lọc chữ, giàu có về họa tính và những năng lực tổng hợp khác nữa rất khó gọi tên ở một kích cỡ nghệ sĩ Văn Cao đã khiến cho người đọc có cảm giác mỗi bài thơ là một sự cất tiếng tự nhiên, trực tiếp từ tim óc, mỗi câu chữ dính trầm của tư tưởng”, PGS.TS Ngô Văn Giá nhấn mạnh.

Thơ Văn Cao chủ yếu là thơ tự do, hiện đại trong cấu tứ, hình ảnh, ngôn từ. Ông tối giản, dồn nén ngôn từ. Điều này thể hiện rõ qua cách ông đặt tên nhan đề. Cấu trúc bài thơ luôn được ông lạ hóa nhưng không bí hiểm. Là người đóng góp nhiều về thi pháp, cấu trúc, song thơ Văn Cao nổi bật hơn bởi cái nhìn độc đáo, gắn liền với thân phận ông.

Chính sự dồn nén, làm gọn thơ của Văn Cao góp phần mang lại sự giàu có và quyền năng cho tiếng Việt. “Tất cả đều lạ và hay. Ít nhưng chất, có thể nói ngắn gọn như vậy về thơ của Văn Cao. Với thơ, có thể nói, Văn Cao đã có đủ để trả nợ cho tiếng Việt, cho định mệnh của nghệ sĩ, và đủ để trả nợ cho cuộc đời đầy ngổn ngang này”, nhà phê bình văn học Nguyễn Hoài Nam nêu.

Tinh thần kiệm chữ, chắt lọc chữ, giàu tính họa và những năng lực tổng hợp khác nữa rất khó gọi tên ở một nghệ sĩ nào khác ngoài Văn Cao. Độc giả mỗi khi đọc tác phẩm của ông khiến họ cảm nhận được tiếng nói tự nhiên, trực tiếp và thấm đẫm tư tưởng cá nhân. Bàn về nghệ thuật thơ của ông không dễ, bởi bấy nhiêu năm im lặng, tu luyện, Văn Cao đã vượt lên các thủ pháp và đạt được nhiều thành quả. Những công trình nghệ thuật của ông được xây từ ngôn từ tinh tế, tinh xảo, thật sự quyến rũ người đọc.

Họa trong thơ

Một nốt son nữa ở thơ Văn Cao là tính họa. Đây được coi là một thế mạnh trong con người nghệ sĩ đa tài. Tuy nhiên, không phải họa sĩ nào cũng có thể sáng tác thơ, bởi điều quan trọng nhất là năng lực chuyển hóa những ấn tượng thị giác thành ngôn từ. “Không ít người vừa làm thơ vừa vẽ tranh, đâu có thấy chất “thi trung hữu họa”, hay ngược lại. Có những nhà thơ không biết vẽ nhưng thơ vẫn mang tính họa. Tài năng đáng nể của Văn Cao là ông làm hội họa bằng ngôn từ”,PGS.TS Ngô Văn Giá.