Ông thường dặn dò tôi rằng: “Hình thức nói lên nội dung. Chữ đẹp và rõ ràng thể hiện con người có phong cách tử tế và tinh thần phân minh sáng sủa. Một bức thư viết chữ xấu và rối rắm khó đọc, sẽ làm cho người nhận rất bực mình. Bức thư ấy thất bại toàn phần.
Chữ viết rõ ràng ngay thẳng, phản ảnh con người trong sáng. Chữ viết xiên xẹo, rối rắm như gà bươi, phản ảnh con người vô trật tự, quanh co, xảo trá. Chữ viết chính là sứ giả tinh thần của mình nên luôn phải chú tâm cẩn thận”.
Những dặn dò ấy đã rèn luyện tôi từ thời niên thiếu. Chữ tôi viết không đẹp nhưng đâu ra đấy. Thói quen viết chữ cẩn thận đã mãi theo tôi đến già. Lúc chưa mua máy vi tính, tôi vẫn viết văn bằng bút. Cho dù đó là bản nháp tôi vẫn không cẩu thả, vẫn viết cẩn thận như bản đã hoàn chỉnh.
Sau khi về hưu, ba tôi hành nghề thầy thuốc. Ông có tay phục dược, chữa bệnh mau lành. Đặc biệt nhất là môn nhiệt châm do ông sáng tạo dựa vào nền tảng châm cứu học đã có từ xưa. Ông đam mê nghiên cứu và thực hành nghề châm cứu không mệt mỏi. Ông nói:
“Chữa khỏi bệnh một người là hưởng được một niềm vui to lớn”. Giờ nghĩ lại, tiếc quá, tôi không nối nghiệp ông được trong lãnh vực tuyệt diệu này. Tôi đã sa chân vào chốn văn chương chữ nghĩa, một chốn lao đao vất vả.
Ba tôi còn dặn dò tôi: “Con phải nhớ, nhớ nằm lòng rằng: Người khác không bao giờ là mình. Và con đừng quên, đừng quên rằng: Mình cũng không bao giờ là người khác. Phải nhớ và đừng quên hai điều căn bản này trong cuộc sống”.
Lời dặn dò đó đến bây giờ tôi vẫn tâm niệm và lúc nào cũng coi như một gia bảo phi vật thể. Với lời dặn đó, tôi phải thận trọng đối với người khác, bởi họ không bao giờ là mình. Với lời dặn đó, tôi không đánh mất bản thân để thành người khác, vì mình không bao giờ là người khác.
Ba tôi dặn: “Luôn luôn có con đường thành công dẫn đến nơi mình muốn. Mình quyết tâm đi sẽ đến nơi ấy. Nhưng, đến nhanh hay chậm hoặc không đến, đều luôn luôn có người khác tham dự vào”.
Với chỉ bảo đó, tôi biết sự thành công luôn vẫn nhờ vào yếu tố của hoàn cảnh, vẫn nhờ có quí nhân hỗ trợ, con đường thành công không bao giờ là kết quả của nỗ lực mỗi một mình mình.
Ông còn nhắc nhở: “Lời nói là một thực phẩm. Phải nếm và ăn thử, trước khi cho ai”.
Với lời nhắc nhở đó, tôi luôn cẩn ngôn. Với lời dặn dò đó, tôi phải luôn trách nhiệm những điều mình sắp nói ra.
Tôi nhớ đến ông nội, nhớ đến đức kiên trì nhẫn nại của ông. Ông làm việc gì cũng cố gắng làm đến cùng, không bao giờ bỏ dở. Làm xong việc này mới đến việc khác. Thứ tự và bền bỉ. Ông không bao giờ ngã lòng. Sau này lớn lên, tôi tiếp thu được ở ông đức tính kiên nhẫn và quyết tâm ấy.
Hồi còn sinh thời, ông bắt tôi học thuộc lòng bài văn trong sách Quốc văn giáo khoa thư “Ta không nên ngã lòng”.
Bài văn đó như sau: “Nước mềm, đá rắn, thế mà nước chảy mãi, đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ lớn, vậy mà dây cưa mãi gỗ cũng phải đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ. Con người ta cũng vậy, phàm làm việc gì dẫu thấy khó cũng đừng ngã lòng.
Gặp việc gì khó ta cũng cứ vững lòng mà làm, cứ cố vào, cố nữa, cố luôn mãi, thì việc dẫu khó đến đâu, cũng có ngày ta làm nên được. Những kẻ hay ngã lòng chẳng bao giờ làm được việc gì cả”. Bài học trong sách Quốc văn giáo khoa thư ấy, bây giờ vẫn mới tinh, tôi vẫn nỗ lực học tập mãi. Bài học ấy mãi mãi vẫn mới tinh cho đến muôn đời sau đã cũ.
Ông nội tôi cũng thường dặn tôi rằng: “Đối với kẻ dưới, mình biết khom xuống, họ sẽ ngước lên”.
Những lời tâm huyết đó, tôi thấy càng ngày càng đúng. Tôi không ảo tưởng, không kiêu ngạo và biết thương người hơn lên.
Bà nội tôi mù chữ. Bà dặn dò con cháu theo kiểu riêng độc đáo của bà. Bà luôn dặn: “Xẩm tối không được rửa bát. Tiếng va chạm chén bát làm các oan hồn đói khát tưởng lầm có ăn uống mà tụ lại, tội nghiệp họ”.
Lời dặn dò của bà có nghĩa là lòng thương người cần phải nới rộng ra, rộng ra đến cả những oan hồn đã khuất. Lòng thương người của bà đã bát ngát đến bao la.