Rừng Hạc

Rừng Hạc hay là một vẻ đẹp thuần khiết, một vẻ đẹp lý tưởng chỉ nằm trong tâm tưởng? Chỉ nằm trong những ngày quá vãng trong trẻo đầy ảo mộng? Truyện ngắn của Trần Nguyễn Anh thường mang chất thơ không phải ở câu từ mà ở ý. Và truyện ngắn này cũng vậy. Nỗi xót xa tưởng như nhẹ bẫng, nhưng day dứt. May thay, truyện sáng lên ở khúc cuối, nhưng hoàn toàn không phải loại kết thúc happy-ending. Dường như đó là khởi đầu mới. Nhập thế.

Trần Nguyễn Anh viết văn xuôi, làm thơ và còn làm báo. Anh sống lãng đãng như trong chính những truyện ngắn của mình, ở TPHCM.

L.A.H

Minh họa: Vũ Xuân Tiến

Tròn 30 năm anh mới trở lại khu rừng sâu của loài chim hạc quý cũng là ngần ấy thời gian chàng khắc khoải nhớ về bóng dáng một con người vừa thực vừa hư như cơn mưa rừng xa lắc.

Ba thập kỷ không phải ngắn, chẳng phải dài bởi trong nỗi nhớ con người thời gian không bao giờ dịch chuyển, chúng nằm yên đó như rừng cây đầy gió và bến đò vẫn phủ rong rêu. Cây đa kia ngót nghét nghìn năm tuổi vẫn cố vươn ra sông nên mọc biết bao rễ cành mà nghe nói cứ một trăm năm nó chỉ tiến được bằng một bước chân người ta thôi nên sông hẵng còn xa lắm.

Người mẹ già đợi con về nằm thao thức bên chiếc hòm gỗ đóng sẵn từ ngày ấy nay đã cong vênh mà không mối mọt nào xâm phạm nổi. Người con của mẹ đi công tác xa và từ dạo đó vẫn chưa về nhà lấy một lần.

Trong hàng vạn lời qua tiếng lại mà chàng đã nghe suốt nhiều thập kỷ lòng sao vẫn trống vắng vì chờ đợi một giọng nói rất đỗi riêng tư. Một giọng nói kiệm lời và có lẽ không bao giờ nói quá một câu trong mỗi lần trò chuyện như con chim kia đậu trên cành cao ngắm nước chảy hoa trôi mà cả ngày, đôi khi cả tuần chẳng thấy cất lên một lời thưa thốt. Nó đậu rồi bay, bay rồi đậu, chẳng biết chờ ai hay đợi điều gì.

Chàng thường ghé các đình cổ, chùa chiền. Chàng lặng mình đứng nhìn những con chim hạc được đúc bằng đồng, có khi làm từ gỗ quý.

Thật kỳ quặc sao con hạc lại đứng trên lưng con rùa như kẻ lười biếng muốn qua sông mà chẳng thèm bay. Những con hạc ấy không thấy vỗ cánh, chúng cứ đứng đó, trong góc chính điện, không bao giờ thay đổi, không bao giờ biến mất. Chúng là chứng nhân còn lại của thời gian và của cả không gian nữa, bởi những con hạc gỗ gợi chàng nhớ lại 3 ngôi đình của làng anh bị tháo dỡ rộn ràng làm chuồng lợn cho hợp tác xã thời bao cấp.

Cuộc đời biết bao thay đổi, thăng trầm nhưng loài chim hạc thì không, chúng vẫn đứng đó cùng các ban thờ các vị tướng quân, các vị vua, các thần linh và vô số bài vị khác.

Nếu như ta biết về tập quán của chim hạc sẽ thấy rằng chúng thích đứng trầm ngâm, suy tư như những vị hiền triết vậy. Chúng thích cảnh sông núi, hồ nước, các dòng sông tĩnh lặng. Khác với chim cò ồn ã và nháo nhác, loài chim hạc gợi lên một vẻ yên bình và tĩnh tại và đâu đó nó khiến người ta nghĩ tới sự không thay đổi hay chính là sự trường tồn, vĩnh cữu.

Tác giả Trần Nguyễn Anh (áo đỏ)

30 năm trước, anh là chàng kỹ sư trẻ mới được tuyển dụng vào cơ quan còn nàng là cô sinh viên vừa ra trường còn chưa kịp nhận bằng tốt nghiệp. Họ được học chung trong một lớp ngắn hạn về cách thức bảo vệ các loại động vật, thực vật quý hiếm. Lớp học vui nhộn vì tất cả đều là “trẻ trâu” thích khám phá cuộc sống và có lẽ thích khám phá mọi điều khác.

Trong lớp học ồn ào lúc nào cũng có chủ đề để thảo luận và tranh cãi kịch liệt chàng phát hiện một cô gái luôn đứng ngoài tất cả. Cô đến lớp trễ 10 phút và rời khỏi lớp trước mọi người 10 phút, cô chọn vị trí ở cuối lớp, nơi góc tối nhất. Ngay cả chàng cũng chỉ phát hiện ra cô khi lớp đi gần hết chặng đường.

Nhã không biết cách nào để trò chuyện cùng hạt thóc ấy. Cuối cùng, một hôm chàng ngồi sẵn ở cuối lớp, sát vị trí của cô bạn đến muộn.

Lớp học bắt đầu được 10 phút, Nhã thấy hình như cạnh mình có hơi ấm và một tà áo lụa hoa cà thì phải. Nhưng chàng vẫn chống cằm nhìn ra cửa sổ, ngắm những cây sấu già đã rải vô số lá trên đường.

Thầy cứ giảng về các loài động vật trong sách đỏ đứng trước nguy cơ tuyệt chủng còn Nhã suy nghĩ xem mình sẽ nói một câu gì với người bạn học kế bên. Bởi chàng biết đây là cơ hội duy nhất không bao giờ lặp lại.

Cuối cùng, vẫn không ngoái lại, Nhã hỏi: “Bạn tên gì?”.

“Mơ”.

Ai đó thốt lên, tiếng nói trong vắt như loài chim và chỉ đủ cho một người nghe.

30 năm chỉ vậy thôi, một người hỏi và một người trả lời.

Bằng linh cảm nào đó, Nhã biết rằng nếu mình không hỏi tên thì sẽ chẳng bao giờ tìm được người con gái này nữa. Mà điều ấy là sự thật. Khi chàng ngoái lại, chiếc bàn đã trống trơn và từ hôm đó nàng không bao giờ đến lớp nữa.

***

Lớp của chàng vẫn họp 5 năm, rồi 10 năm, rồi 15 năm kỷ niệm, 20 năm dấu ấn, 25 năm một chặng đường. Chàng không bao giờ tham dự vì chàng đã không còn công tác trong ngành kiểm lâm. Nhưng cứ 5 năm chàng lại theo dõi cuộc họp lớp, xin từng tấm hình mọi người chụp với nhau.

Chàng xem kỹ từng người, lấy kính lúp mà soi. Nào cô tóc dài, nào nàng tóc ngắn, chị này tóc xoăn, chị này có sửa mũi, cô kia đã nâng cằm. Nào ảnh chụp nghiêng, nào chụp chính diện, chụp tập thể, chụp nhóm, chụp cá nhân. Nhưng, chẳng bao giờ chàng còn tìm thấy hạt thóc của mình.

Đôi khi, chàng gặp các bạn học cùng lớp, nhắn tin nữa.

“Lớp mình có ai tên Mơ không nhỉ?”.

Câu trả lời là: “Lớp mình làm gì có ai tên Mơ! Có ông mơ thì có. Ông xem danh sách đi, có mơ với mộng nào đâu”.

Mà đúng thật, danh sách họp lớp các kỳ đều không ai tên là Mơ!

Nhã bắt đầu hoài nghi ký ức của mình.

Lẽ nào, buổi trưa ấy, câu chuyện với nàng Mơ và tà áo tím hoa cà (đoán vậy vì ngày nào cũng mặc mỗi cái áo ấy) chỉ là một ảo ảnh? Một giấc mơ trưa?

Rồi Nhã nghĩ rằng “Tôi giờ lẩn thẩn rồi. 30 năm sao không lẩn thẩn cho được. Cứ đi tìm và nhớ về một người không có thật. Lớp gần 100 người mà không ai tên Mơ, lại cứ không tin 100 người mà đi tin vào giấc mơ”. Rồi chàng kết luận: “Mình hâm thật chứ không đùa”.

Chao ôi! Nghĩ đến cái hâm kéo dài tới 30 năm thật buồn cười ra nước mắt. Người ta hâm tỷ độ thì chỉ hâm có lúc thôi chứ. Đằng này cứ tin, cứ mong như thật ấy! Một tình cảm như thể đúng rồi suốt nửa đời người mà hóa ra chỉ là một tiếng nói vô cùng nhỏ bé tự vọng lên trong chính tâm hồn của mình như một chiếc tổ chim rơi xuống lòng hồ xanh biêng biếc trong chiều thu xao xác.

***

Rồi Nhã cũng hiểu rằng mình phải quên những ký ức không có thật và những kỷ niệm mà con người ta có thể tự bịa ra cho chính mình. Như có khi, chàng nghe một bản nhạc phát lên trong thinh không giữa sáng ban mai trong suốt, bản nhạc nghe rõ ràng từng nốt nhạc, từng giai điệu, nhưng nhìn quanh chỉ thấy rừng núi không người. Hóa ra, trong tâm hồn chúng ta có giai điệu, có cả những hình ảnh nữa, thậm chí có cả các câu chuyện tự mình hát, tự mình kể với mình thôi.

Và Nhã cũng buồn khi mình đã thương nhớ một người không có thật với sự tiếc nuối nhẹ nhàng: “Nếu ba mươi năm ấy mình nghĩ về một con người có thật mọi việc hẳn đã khác đi. Những năm của đời mình không dành tìm cái hư ảo hẳn đã không như bây giờ”.

Tâm hồn chàng phải như cây sấu đầy u bướu kia không? như cánh rừng cô đơn kia không? Tự mình đã làm đau chính mình đấy người ạ.

Chàng cũng tủm tỉm cười cho chính bản thân mình và nghĩ rằng mọi người đã nhìn chàng như một gã khờ chẳng phải sai. Chàng cảm ơn những người quanh luôn cảnh tỉnh chàng đừng sa vào những chuyện viển vông, xa vời và hãy sống với cuộc đời thực này. Tất cả những kẻ lãng mạn xa rời cuộc sống thực đều có kết cục không ra gì.

Ấy thế đấy! đã xác định đã đồng lòng cùng mọi người rồi, mà đôi khi, trong những chiều mưa rừng, những buổi sớm mai trong thành phố, chàng lại nghe ai đó như nói vào tai - một chữ thôi.

Mơ.

***

Họp lớp 30 năm, chàng quyết định đi dự, bỏ qua những nỗi đau và mất mát của trí tưởng tượng đã khiến tâm hồn chàng chịu hơn ba chục vết sẹo giữa những mùa thu đầy hoa dại. Tự ngậm ngùi với mình. Ai cũng có người thật để thương để kết bạn còn mình lại kết bạn với một hạt thóc trong giấc mơ.

Địa điểm họp lớp của chàng hóa ra chính ra khu rừng chim Hạc mà năm xưa lớp đã từng đi từng tập trong những ngày đầu tiên. Vâng, ba thập kỷ loài chim hạc vẫn là giống loài quý hiếm cần bảo vệ nghiêm ngặt. Chúng chung thủy sống trong khu rừng thủy mặc ở miền Bắc mà người ta nói rất ít trong số chúng di cư vào Nam.

Như thói quen, chàng lần tìm trong danh sách lớp dự họp lần này. Vần M không có ai tên Mơ.

“Lại hâm thêm lần nữa” – chàng tự trách mình.

Từ xa tới nên Nhã hội quân khá trễ, chàng vội đi ngủ để sáng mai cùng lớp thăm khu rừng chim Hạc năm nao. Nhà khách nằm giữa rừng nguyên sinh xung quanh không làng mạc. Gió gầm rú suốt đêm và chàng nhận ra mình không ngủ được. Đơn giản từ đâu đó trong sâu thẳm, chàng vẫn nhớ về một tà áo dài màu hoa cà.

Chàng thấm thía một điều rằng tâm hồn người ta có thể nhuộm một màu hoa cà từ trong giấc mơ mà không cần phải màu sắc thực. Một chút mùa thu cũng để lại hương vị cho suốt đời người.

***

Những chiếc thuyền nhỏ chở lớp chàng đi vào rừng hạc. Tiếng chèo khua cũng nhẹ vì sợ đàn chim bay đi. Sương khói bao phủ tan dần lộ ra dòng sông và hai bên đã thấp thoáng những tổ chim hạc treo trên cành.

Bất chợt, chàng nhận ra trên con thuyền và ngồi sát chàng một tà áo dài màu hoa cà. Chàng không ngoảnh lại đâu. Chàng vẫn còn mải nhìn những con chim hạc đứng trên cành trông tổ. Vài con chim cất tiếng hót như chào hỏi chúng tôi.

“30 năm rồi mới gặp lại anh”.

Tiếng nói ai đó thật gần, quen thuộc vô cùng nhưng chưa bao giờ lại nhiều từ ngữ đến thế. Hãy nói thêm đi. Nhưng vẫn thế, tiếng chèo khua nước và tiếng chim Hạc còn nhiều hơn.

Đến lượt chàng: “Tôi hỏi mọi người nhưng ai cũng nói lớp mình không người nào tên Mơ”.

“Đứa nào nói vậy! anh nói đi, để em xử!”.

“Thôi! Thôi! Trong danh sách lớp cũng có tên bà đâu”.

“Ừ! Vì em chỉ được mời dự thính thôi, khi ấy em vẫn còn chưa nhận bằng tốt nghiệp đại học mà. Em chỉ học ké mấy buổi”.

Chàng ngao ngán khi nàng bảo: “Mơ là tên gọi em ở nhà!”.

“Chỉ mình anh và mẹ gọi em là Mơ mà! Làm sao mọi người biết được chuyện này!”.

Mẹ sao rồi?

“Mẹ vẫn khỏe và bà gọi điện thoại nhiều hơn em gọi cho bà, cứ Mơ ơi! Mơ ơi! Mày đi đâu không về với mẹ”.

***

Lần này thì chẳng ai trốn tìm được nữa, con thuyền đi giữa dòng sông và chẳng thể bỏ đi đâu. Anh ngắm nhìn những con chim hạc kia, chẳng hiểu 30 năm trước có con nào vẫn còn lại? Chúng nhận ra anh và Mơ không? Những con hạc nhuốm màu mây miệt mài tha cành lá tươi nguyên về làm tổ.

Ôi những con chim hạc chẳng bao giờ đi lạc. Chúng mãi ở khe núi đá này, bên dòng sông này. Cuộc sống bình lặng kia, thật đáng ngưỡng vọng sao. Bên sông cây đa nghìn tuổi ba thập kỷ vẫn chưa ra đến bờ sông. Ngôi đền cổ uy nghi sương khói. Anh và Mơ đi vào lễ đền cùng xem những con chim hạc gỗ bạc màu thời gian. Anh không biết Mơ xin gì cho ai mà chăm chú vô cùng giữa màn sương khói và những con hạc gỗ cùng chứng kiến lắng nghe.

Cuộc họp lớp kết thúc nhanh như khi nó diễn ra vậy. Mọi người nói với nhau về con cháu về các thế hệ tương lai mà chẳng ai muốn nhớ lại cái thời trẻ dại không bao giờ có thể quay về.

Quá khứ hãy để nó ngủ yên cho dù thực sự quá khứ đã khi nào ngủ yên?

Bữa cơm chia tay, bên cạnh Mơ có một ghế trống và chàng điền vào đó.

Thật sự họ chẳng ăn gì, cũng chẳng nói gì. Đây là lần đầu tiên anh và Mơ ngồi với nhau bên những chén cơm.

Chàng chán lắm, chàng đã hỏi về nàng quá nhiều. Hãy để nàng nói điều gì đó.

“Hôm qua tự dưng em không ngủ được”.

Anh nói: “Em cũng biết mà! những con chim hạc không bao giờ ngủ”.

11/2024