Tỉnh, thành nào được mệnh danh là Tây Đô (tức thủ phủ của Tây Nam Bộ)?
A: Hậu Giang
B: Cần Thơ
C: Sóc Trăng
Giải thích Câu trả lời là đáp án B: Cần Thơ là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương, nằm ở khu vực Tây Nam Bộ. Năm 1739, vùng đất Cần Thơ được khai phá và chính thức có mặt trên dư đồ Việt Nam với tên gọi Trấn Giang. Thời nhà Nguyễn, Cần Thơ là đất cũ của tỉnh An Giang. Đến thời Pháp thuộc, Cần Thơ được tách ra thành lập tỉnh sau đó được đổi thành tỉnh Phong Dinh thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Trong khi đó, chính quyền cách mạng trong kháng chiến chống Pháp vẫn duy trì tên gọi là tỉnh Cần Thơ và nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính. Năm 1957, tỉnh Cần Thơ có thêm huyện Thốt Nốt. Năm 1966, tỉnh có thị xã Vị Thanh. Ba năm sau đó, thị xã Cần Thơ được tách ra khỏi tỉnh Cần Thơ, trực thuộc khu Tây Nam Bộ. Năm 1971, thị xã Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ, sau đó trở thành thành phố Cần Thơ thuộc khu Tây Nam Bộ. Năm 1976, tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được sáp nhập thành tỉnh Hậu Giang. Tháng 12/1991, Hậu Giang tách thành hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng. Năm 2003, tỉnh Cần Thơ được tách thành thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang ngày nay. Cần Thơ được công nhận là đô thị loại một trực thuộc Trung ương vào năm 2009. Theo Địa chí Cần Thơ, từ trước tới nay, chưa có văn bản nhà nước chính thức nào gọi Cần Thơ là Tây Đô. Tuy nhiên, qua nhiều thời kỳ, Cần Thơ luôn giữ vai trò là trung tâm, có vị trí chiến lược về kinh tế, xã hội, giao thông của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, vùng đất này được mệnh danh Tây Đô - thủ phủ của Tây Nam Bộ.
Tỉnh nào đông dân nhất Tây Nam Bộ?
A: An Giang
B: Tiền Giang
C: Sóc Trăng
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Tây Nam Bộ (vùng đồng bằng sông Cửu Long) gồm 13 tỉnh, thành: TP Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Theo Niên giám thống kê 2020 của Tổng cục Thống kê, Tây Nam Bộ có diện tích hơn 40.000 km2 với dân số hơn 17,3 triệu người. Trong đó, địa phương đông dân nhất là An Giang với hơn 1,9 triệu người; chủ yếu là người Kinh, Khmer, Chăm và Hoa. Tỉnh An Giang rộng hơn 3.536 km2, đứng thứ tư về diện tích ở Tây Nam Bộ, sau Kiên Giang, Cà Mau và Long An. Phía Đông tỉnh An Giang giáp Đồng Tháp; phía Bắc và Tây Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài gần 104 km; phía Tây Nam giáp Kiên Giang; phía Nam giáp Cần Thơ.
An Giang hiện có thành phố nào?
A: Sa Đéc
B: Mỹ Tho
C: Châu Đốc, Long Xuyên
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Tỉnh An Giang hiện có 11 đơn vị hành chính cấp huyện. Ngoài hai thành phố Long Xuyên và Châu Đốc, tỉnh có thị xã Tân Châu và các huyện An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân, Thoại Sơn, Tịnh Biên, Tri Tôn. Trước khi người Việt đến khai phá, vùng đất An Giang nói chung, Long Xuyên nói riêng hoang vu, sình lầy, sông rạch chằng chịt, cây rừng rậm rạp. Nơi định cư đầu tiên của người Việt ở Long Xuyên là Châu Trấn Ba (Cù lao Ông Hổ). Về sau, cư dân tìm đến vàm Đông Xuyên để trú ngụ, khai phá ruộng đất, lập làng. Quá trình hình thành các cụm dân cư người Việt ở Long Xuyên phát triển theo tuyến từ Châu Trấn qua vàm Đông Xuyên lên Bình Đức, xuống Mỹ Thạnh, rồi vào Mỹ Hòa. Châu Đốc cũng có lịch sử phát triển lâu đời với hơn 250 năm. Địa phương này có nhiều thay đổi về mặt hành chính nhưng luôn giữ vị trí quan trọng với An Giang và vùng đồng bằng sông Cửu Long về mặt quốc phòng, kinh tế. Mỹ Tho là thành phố của Tiền Giang, Sa Đéc là thành phố của Đồng Tháp.
Tỉnh nào có tên gọi nghĩa là "xóm nghèo làm nghề chài lưới"?
A: Bạc Liêu
B: Sóc Trăng
C: Tây Ninh
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Bạc Liêu là một tỉnh thuộc Tây Nam Bộ, rộng 2.669 km2. Theo Cổng thông tin điện tử tỉnh Bạc Liêu, năm 1680, Mạc Cửu (một di thần nhà Minh ở Trung Quốc) đến vùng Mang Khảm chiêu tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú Quốc, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hưng Úc (tức Vũng Thơm hay Kompong-som), Cần Bột (Campốt) lập ra thôn xóm đầu tiên trên vùng đất Bạc Liêu. Sách Bạc Liêu - Thế và lực trong thế kỷ 21 cho biết, danh xưng Bạc Liêu đọc theo tiếng Trung, giọng Triều Châu là Pô Léo có nghĩa là xóm nghèo làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Pô phát âm theo tiếng Hán Việt là "Bạc" và Léo phát âm là "Liêu". Người Pháp căn cứ vào tên Pô Léo nên gọi vùng đất này là Phêcheri - chaume (đánh cá và cỏ tranh). Đầu 1976, Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam hợp nhất hai tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau thành tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau, đến gần giữa năm này đổi tên thành tỉnh Minh Hải. Đầu năm 1997, tỉnh Bạc Liêu được tái lập và giữ nguyên cho đến nay.
Tỉnh Bạc Liêu có giáp biển hay không?
A: Có
B: Không
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Trong đất liền, Bạc Liêu giáp các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang. Phía Đông Nam, tỉnh này giáp Biển Đông với bờ biển dài hơn 56 km. Bạc Liêu có địa hình khá bằng phẳng, không có đồi núi; cơ bản là đồng bằng với các cánh đồng rộng mênh mông, sông rạch và kênh đào chằng chịt. Về hành chính, tỉnh được chia thành TP Bạc Liêu, thị xã Giá Rai, các huyện Hồng Dân, Phước Long, Vĩnh Lợi, Đông Hải và Hòa Bình. Dân số Bạc Liêu gần 900.000 người, trong đó đông nhất là người Kinh, Hoa và Khmer. Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu, vùng đất Bạc Liêu đã hình thành trên 200 năm. Do điều kiện đất đai và cấu tạo dân cư buổi đầu, Bạc Liêu không giống các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Dân cư ở đây không hình thành từ lũy tre làng, cha truyền con nối mà đa số là dân xiêu tán, nghèo khổ, tha phương cầu thực. Họ định cư rải rác trên các gò đất cao, trên các bờ sông, các kinh xáng. Người Kinh, Khmer, Hoa sống đan xen nhau, luôn tương trợ, đoàn kết khi hoạn nạn, chân thành cởi mở, thích "làm ăn lớn". Phong cách ứng xử người dân Bạc Liêu mang tính cách nông dân thôn dã, chất phác, bộc trực, dám phản kháng mạnh mẽ trước bất công xã hội.
Thành phố nào có tên gọi khác là 'thành phố sông hồ'?
A: Hà Nội
B: Hải Phòng
C: Quảng Ninh
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Theo cổng thông tin điện tử Hà Nội, hiện có 9 con sông chảy qua thủ đô, gồm Hồng, Đuống, Đà, Nhuệ, Cầu, Đáy, Cà Lồ, Tích và Tô Lịch. Trừ sông Tô Lịch nằm trong nội đô, 8 con sông còn lại đều chảy qua nhiều tỉnh, thành khác. Bên cạnh đó, sông Kim Ngưu lấy nước từ Tô Lịch, chảy theo hướng Tây-Đông rồi Bắc-Năm rồi hợp lưu ở Văn Điển. Một số người tính Kim Ngưu và Tô Lịch là hai con sông khác nhau nhưng nhiều tài liệu chỉ tính sông Tô Lịch. Cùng với sông, Hà Nội còn có hệ thống đầm hồ dày đặc. Ở thế kỷ trước, thủ đô có trên 200 hồ lớn nhỏ, phần nhiều là hồ đầm tự nhiên do vết tích của những khúc sông chết để lại. Hiện nay, dù phần lớn hồ đã bị san lấp để lấy mặt bằng xây dựng, Hà Nội vẫn còn khoảng 100 hồ, phân bổ ở khắp xã phường. Hệ thống sông, hồ góp phần điều hòa nhiệt độ tự nhiên, giúp vùng nội đô giảm bớt nhiệt độ. Vì thế, Hà Nội có biệt danh "thành phố sông hồ" hay "thành phố trong sông".
Tỉnh nào tên gọi nghĩa là "kho chứa bạc"?
A: Trà Vinh
B: Bạc Liêu
C: Sóc Trăng
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Theo Cổng thông tin điện tử Sóc Trăng, tỉnh này nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách TP HCM 231 km, cách TP Cần Thơ 62 km. Phía Bắc và Tây Bắc tỉnh giáp Hậu Giang, phía Tây Nam giáp Bạc Liêu, phía Đông giáp Trà Vinh, phía Đông Nam giáp biển Đông. Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh'leang tiếng Khmer mà ra. Srok tức là "xứ", "cõi"; Kh'leang là "kho", "vựa", "chỗ chứa bạc". Srok Kh'leang là xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Việt phiên âm Srok Kh'leang là "Sốc - Kha - Lang" rồi sau đó đọc thành Sóc Trăng. Dưới triều Minh Mạng, Sóc Trăng được đổi tên thành Nguyệt Giang tỉnh, do chữ Sóc biến thành chữ Sông, Trăng thành Nguyệt. Sóc Trăng rộng hơn 3.311 km2, dân số hơn 1,2 triệu người. Sóc Trăng có bờ biển dài 72 km với ba cửa sông lớn Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh.
Tên gọi của tỉnh nào theo tiếng Kinh có nghĩa là "làng hồ"?
A: Kon Tum
B: Gia Lai
C: Đăk Nông
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Kon Tum là tỉnh miền núi, nằm ở phía Bắc Tây Nguyên, rộng hơn 9.600 km2. Theo tài liệu Kon Tum trên đường phát triển, vùng đất này vốn là một làng nhỏ của người Bana cạnh dòng sông Đăk Bla. Sau đó, đồng bào các dân tộc Xơ Đăng, Bana, Gia Rai, Jẻ Triêng, Brâu, Rơ Măm đến sinh sống. Theo truyền thuyết người Ba Na, làng người địa phương ở gần bên dòng sông Đăk Bla với tên gọi Kon Trang - Ôr. Lúc ấy, Kon Trang - Ôr rất thịnh vượng với dân số khá đông. Giữa các làng khi đó luôn gây chiến với nhau để chiếm đoạt của cải và bắt người về làm nô lệ. Hai con trai của Ja Xi - một trong số những người đứng đầu làng Kon Trang - Ôr tên là Jơ Rông và Uông, không thích cảnh chiến tranh, làm nhà ở riêng gần chỗ có hồ nước, cạnh dòng Đăk Bla. Vùng đất này rất thuận lợi cho phương thức sống định cư, dần dần có nhiều người đến ở, mỗi ngày một phát triển thêm đông. Kon Tum trở thành tên gọi chính thức cho một làng mới lập của người Ba Na từ đó. Theo tiếng Kinh, Kon Tum có nghĩa là "làng hồ" (Kon là làng; Tum là hồ, ao, bàu nước,...). Do vị trí đặc biệt, Kon Tum là vùng đất bằng, được dòng Đăk Bla bồi đắp phù sa màu mỡ. Đồng bào các dân tộc tụ hội về đây ngày một đông, người Kinh khi đến Tây Nguyên cũng chọn Kon Tum làm nơi định cư.