Ung thư phổi không còn là án tử: Vũ khí từ liệu pháp trúng đích và cá thể hóa

Ung thư phổi không tế bào nhỏ, loại ung thư phổ biến nhất trên toàn cầu đang ghi nhận những bước tiến mạnh mẽ trong điều trị nhờ chiến lược cá thể hóa và phối hợp đa liệu pháp, mang đến cơ hội sống kéo dài hơn cho người bệnh, đặc biệt là bệnh nhân mang đột biến gene đặc hiệu.

Tại hội thảo khoa học chuyên đề “Tiến bộ trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ” do Trung tâm Y học hạt nhân & Ung bướu (Bệnh viện Bạch Mai) chủ trì, phối hợp với các bệnh viện đầu ngành trên cả nước như Bệnh viện K, Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Bệnh viện Ung bướu Nghệ An tổ chức, hàng trăm chuyên gia trong nước và quốc tế đã cùng nhau thảo luận những tiến bộ nổi bật trong điều trị căn bệnh này.

Không còn điều trị “mặc đồng phục”

PGS.TS Sun Min Lim (Khoa Nội, Đại học Y khoa Yonsei, Hàn Quốc) nhấn mạnh: “Chúng ta không còn điều trị ung thư phổi bằng một công thức chung. Mỗi bệnh nhân là một bản đồ gene riêng biệt, cần chiến lược điều trị riêng biệt”.

Theo PGS Lim, khoảng 50% bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) mang đột biến gene dẫn đường, một yếu tố cho phép áp dụng các thuốc điều trị trúng đích nếu được xét nghiệm chính xác và kịp thời. Với dữ liệu từ Bệnh viện Severance (Hàn Quốc), bà trình bày hiệu quả của xét nghiệm gene toàn diện (CGP) bằng công nghệ giải trình tự thế hệ mới (NGS), giúp phát hiện cả các đột biến hiếm và cơ chế kháng thuốc như T790M, C797S, MET amplification.

PGS Lim cũng khuyến nghị lồng ghép sinh thiết lỏng như một công cụ bổ trợ hiệu quả, đặc biệt trong các trường hợp khó lấy mô sinh thiết. “Chẩn đoán phân tử sâu là điều kiện tiên quyết để bắt đầu điều trị đúng hướng. Một xét nghiệm tốt không chỉ phát hiện đột biến, mà còn giúp tiên lượng và xây dựng chiến lược điều trị lâu dài” bà nói.

Phối hợp điều trị cục bộ: Biến di căn thành mạn tính

Một điểm nhấn khác tại hội thảo là phần trình bày của GS. Chiao-En Wu (Bệnh viện TuCheng, Đài Loan) về chiến lược điều trị phối hợp cục bộ (Local Consolidation Therapy - LCT) bằng phẫu thuật hoặc xạ trị sau khi kiểm soát toàn thân bằng thuốc trúng đích.

Phân tích từ các nghiên cứu quốc tế như FLAURA, MARIPOSA và dữ liệu thực tế tại Đài Loan cho thấy, thời gian sống không bệnh (PFS) có thể kéo dài tới 42 - 58 tháng, thậm chí có bệnh nhân sống trên 72 tháng nhờ phối hợp điều trị hợp lí. GS Wu đặc biệt lưu ý đến sự khác biệt giữa hai dạng đột biến EGFR phổ biến, exon 19 deletion và L858R – trong tiên lượng và lựa chọn chiến lược điều trị phù hợp.

Các bác sĩ BV Bạch Mai tham gia hội thảo

“Khi có chiến lược phối hợp đúng lúc, đúng đối tượng, chúng ta hoàn toàn có thể biến một bệnh lý di căn thành mạn tính, giúp người bệnh sống lâu hơn với chất lượng sống tốt hơn”, GS Wu nhấn mạnh.

Việt Nam có cơ hội không kém các nước phát triển

Chia sẻ từ góc độ trong nước, bác sĩ chuyên khoa 2 Lê Viết Nam, Trung tâm Y học Hạt nhân & Ung bướu (Bệnh viện Bạch Mai) cho biết: “Tại Việt Nam, đa số bệnh nhân ung thư phổi được phát hiện ở giai đoạn muộn. Việc xét nghiệm sinh học phân tử và cá thể hóa điều trị giúp mở ra nhiều lựa chọn hiệu quả hơn, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân mang đột biến EGFR”.

Từ nghiên cứu thực tiễn với 343 bệnh nhân tại 9 trung tâm ung bướu trong cả nước, tỉ lệ đáp ứng điều trị bằng thuốc trúng đích afatinib đạt hơn 78%, thời gian điều trị trung vị là 16,7 tháng, tương đương với dữ liệu từ các nước châu Á. Đây là dấu hiệu cho thấy hiệu quả điều trị tại Việt Nam đang dần bắt kịp mặt bằng quốc tế nếu được chẩn đoán và điều trị đúng hướng.

Đặc biệt, bác sĩ Nam nhấn mạnh, cá thể hóa điều trị không chỉ dựa trên loại đột biến, mà cần tính đến khả năng dung nạp, chi phí và mức độ tiếp cận thuốc của từng bệnh nhân, yếu tố rất quan trọng trong bối cảnh thực tế tại Việt Nam.

Đột biến hiếm - cơ hội không nhỏ

Một điểm đáng chú ý khác đến từ nghiên cứu của ThS. bác sĩ chuyên khoa 1 Trương Tấn Phát, Bệnh viện Ung bướu TP.HCM về nhóm bệnh nhân mang đột biến hiếm G719X, thường bị bỏ qua trong các nghiên cứu lớn nhưng lại chiếm tỉ lệ đáng kể ở người châu Á.

Kết quả từ 34 bệnh nhân được điều trị bước một bằng afatinib cho thấy tỉ lệ đáp ứng đạt 64,7%, thời gian điều trị trung vị lên tới 19 tháng. Điều chỉnh liều giúp tăng khả năng dung nạp mà không làm giảm hiệu quả. “Không ít bệnh nhân sống thêm 3 - 4 năm với chất lượng sống tốt, chỉ nhờ xác định đúng đột biến và dùng thuốc phù hợp”, bác sĩ Phát chia sẻ.

Cá thể hóa là chìa khóa, phối hợp là hướng mở

Hội thảo khép lại với thông điệp thống nhất từ các chuyên gia: cá thể hóa điều trị là xu hướng tất yếu, nhưng hiệu quả tối ưu chỉ đạt được khi biết phối hợp đúng lúc và đúng cách. Xét nghiệm phân tử sâu là khởi đầu quan trọng; điều trị bước một cần cân nhắc kĩ giữa các thế hệ EGFR TKIs; điều trị phối hợp (phẫu thuật/xạ trị) cần được xem xét sớm ở bệnh nhân di căn giới hạn hoặc đáp ứng tốt.

Với nền tảng khoa học vững chắc và dữ liệu thực tế tích lũy từ nhiều trung tâm trong nước, điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ tại Việt Nam đang có những bước tiến dài, đưa hi vọng sống trở thành hiện thực cho hàng nghìn bệnh nhân mỗi năm.