Bão lũ: Cẩn trọng với dịch bệnh đau mắt

Bão lũ gây tình trạng ngập lụt nhiều nơi. Môi trường ngập nước trong bão lũ có độ ẩm cao, nhiệt độ môi trường từ 20 - 30 độ C khiến các vi sinh vật gây bệnh cho mắt sẽ hoạt động mạnh mẽ, nguy cơ gây bệnh cao. 

BSCKII. Phùng Thị Thúy Hằng - Phó trưởng khoa Mắt, Bệnh viện Bạch Mai cho biết: Lượng mưa lớn gây ngập lụt, đem theo chất bẩn, độc hại, môi trường ô nhiễm là nguyên nhân gây các bệnh truyền nhiễm tại mắt, trong đó bệnh viêm kết mạc (VKM) là phổ biến, có thể bùng phát thành dịch sau lũ. Viêm kết mạc sẽ gia tăng ở cộng đồng thiếu nước sạch, lứa tuổi dễ mắc các bệnh mắt thuộc 2 nhóm là trẻ em dưới 15 tuổi và người lớn trên 60 tuổi, bệnh rất dễ lây, có thể thành các vụ dịch lớn.

Lượng mưa lớn gây ngập lụt, đem theo chất bẩn, độc hại, môi trường ô nhiễm là nguyên nhân gây các bệnh truyền nhiễm tại mắt, trong đó bệnh viêm kết mạc (VKM) là phổ biến, có thể bùng phát thành dịch sau lũ. Viêm kết mạc sẽ gia tăng ở cộng đồng thiếu nước sạch, lứa tuổi dễ mắc các bệnh mắt thuộc 2 nhóm là trẻ em dưới 15 tuổi và người lớn trên 60 tuổi, bệnh rất dễ lây, có thể thành các vụ dịch lớn. Ảnh minh họa: Internet

Viêm kết giác mạc do viêm nhiễm bề mặt nhãn cầu do virus nhóm Adeno thuộc loại thường gặp, viêm nặng và có thể gây tai biến mù lòa. Không có thuốc đặc trị cho virus này, chỉ có điều trị bổ trợ và thực hiện các biện pháp vệ sinh nhằm ngăn chặn bệnh lan tràn. Người ta không thấy vai trò thực sự của kháng sinh tra nhỏ trong điều trị bệnh.

Viêm kết mạc hai mắt là dạng phổ biến nhất của viêm kết mạc do adeno virus gây ra. VKM biểu hiện đột ngột bằng đỏ mắt, ra gỉ mắt nhiều, thường kèm theo đau họng. Nên chẩn đoán phân biệt với: Viêm kết mạc do vi khuẩn chlamydia, các chủng virus khác và cả các viêm kết mạc do dị ứng nữa.

Dạng viêm nhiễm nặng nhất do adenovirus. Bệnh luôn kèm theo đỏ mắt và có thể có giả mạc. Các biểu hiện khác là hơi sợ sáng, sưng phù kết mạc, xuất huyết nhẹ dưới kết mạc. Mắt còn lại cũng bị bệnh, thường sẽ xảy ra sau 4-5 ngày kể từ ngày khởi phát, biểu hiện nhẹ nhàng hơn so với mắt thứ nhất do cơ thể đã bắt đầu có miễn dịch chống lại virus.

Sự lây truyền thường xảy ra ở những quần thể nhỏ, có sự tiếp xúc gần giữa các cá nhân. Virus rất dễ lây lan và không có phương pháp điều trị đặc hiệu. Virus nhóm Adeno có 51 chủng khác nhau của virus chứa DNA mạch đôi. Tuy giống nhau về cấu trúc nhưng lại có kháng nguyên khác nhau (type huyết thanh khác nhau). Virus thuộc nhóm ổn định cao, gây bệnh trên toàn thế giới từ bệnh ở đường hô hấp đến ống sinh dục tiết niệu, dạ dày ruột và mắt. Thường biểu hiện ở một bên mắt (2/3 các trường hợp), không có biểu hiện toàn thân.

Sau một thời gian ủ bệnh khoảng 8 ngày, mắt trở nên đỏ, gỉ mắt lẫn với nước kèm theo cảm giác có dị vật trong mắt. Các dấu hiệu khác có thể thấy như sưng đau hạch trước tai, kết mạc sụn mi có hột nổi lên. Hai biểu hiện này gợi ý cao độ bệnh nhân bị VKM do adenovirus và giúp cho định hướng chẩn đoán lâm sàng.

Nhiễm vi rus có thể tự kiềm chế nhưng cũng có khi lan tràn gây suy đa phủ tạng trên những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Adenovirus từ lâu đã được biết đến là nguyên nhân gây viêm kết mạc hàng đầu, tỷ lệ bệnh viêm nhiễm liên gia đình được xác đinh là khoảng 10-50%, virus lây lan qua tay nhiễm bệnh, giấy, khăn, bề bơi, thuốc và dụng cụ y tế nhiễm bẩn cũng có thể qua giọt bắn từ mũi qua hắt hơi. Bất cứ gì mà bệnh nhân chạm vào cũng có thể là nguồn lây tiềm tàng.

Dạng viêm nhiễm nặng nhất do adenovirus. Bệnh luôn kèm theo đỏ mắt và có thể có giả mạc. Các biểu hiện khác là hơi sợ sáng, sưng phù kết mạc, xuất huyết nhẹ dưới kết mạc. Mắt còn lại cũng bị bệnh, thường sẽ xảy ra sau 4-5 ngày kể từ ngày khởi phát, biểu hiện nhẹ nhàng hơn so với mắt thứ nhất do cơ thể đã bắt đầu có miễn dịch chống lại virus. Ảnh minh họa: Internet

Viêm kết mạc trên trẻ em

Viêm kết mạc trên trẻ em thường nặng do miễn dịch tại chỗ của trẻ còn non yếu, các mô mềm quang mắt của trẻ lỏng lẻo nên dễ bị phản ứng sưng phù trầm trọng. Cha mẹ hay đưa trẻ đi khám vì thấy mắt sưng như quả nhót, đỏ mắt, ra gèn nhiều, mắt bé khỏ vành và khó mở to để khám xét hay tra thuốc. Với trẻ nhũ nhi bệnh hay kèm với việc xuất hiện giả mạc hay chảy máu mắt, đặt vấn đề phải khám loại trừ viêm nhiễm do bạch hầu, cầu khuẩn(não mô cầu, phế cầu).

Điều trị viêm kết mạc trên trẻ em phức tạp hơn, kéo dài hơn người lớn, đòi hỏi công sức của giới chuyên môn lẫn cha mẹ trẻ. Trẻ có thể phải đến viện để bóc giả mạc vài lần ở thể VKM có giả mạc. Các biến chứng có thể gặp là trầy xước giác mạc, viêm loét giác mạc gây sẹo và loạn thị sau này, phản ứng màng bồ đào. Viêm nội nhãn nội sinh( không do chấn thương) là biến chứng hy hữu, một năm gặp vài trường hợp nhưng luôn gây đau đầu và khổ tâm cho cha mẹ lẫn bác sĩ.

Bệnh diễn biến nhanh, khó phát hiện ngay, điều trị thường đi sau một bước là nỗi ám ảnh cho giới chuyên môn về bệnh viêm nội nhãn cấp. Viêm nội nhãn có thể gây mất thị lực trầm trọng cho khoảng 20% bệnh nhân. Sau khi được điều trị, chỉ có khoảng 55% bệnh nhân đạt được thị lực cuối cùng là 1/10 hoặc kém hơn.

Riêng việc có phải múc bỏ mắt hay không còn tùy thuộc tình trạng bệnh, diễn tiến bệnh, việc đáp ứng điều trị của từng người, chỉ có bác sĩ trực tiếp điều trị mới có thể trả lời chính xác, bên cạnh việc phải thông qua một hội đồng chuyên môn để hội chẩn. Về thời gian điều trị, lâu hay mau còn tùy thuộc mức độ trầm trọng của bệnh, tác nhân gây bệnh, đáp ứng của cơ thể đối với bệnh và phương pháp điều trị. Những di chứng có thể là vẩn đục dịch kính, tăng nhãn áp, thậm chí bị hỏng mắt vĩnh viễn.

Phòng bệnh viêm kết mạc

Bệnh lây từ người này sang người khác qua nước mắt và rử ghèn có chứa nhiều tác nhân gây bệnh. Người bị viêm kết mạc hay lấy tay dụi mắt, sau đó cầm nắm vào các đồ vật sử dụng chung trong nhà, nơi làm việc, trường học… làm cho người khác khi sử dụng đồ vật đó bị lây, cũng có thể lây qua môi trường bể bơi tập thể.

Ở người bình thường, nước mắt được dẫn lưu xuống mũi qua hệ thống lệ đạo, khi viêm kết mạc, nước mắt chứa yếu tố gây bệnh được dẫn lưu xuống mũi họng. Khi người bệnh nói chuyện, hắt hơi dịch mũi họng bắn ra ngoài không khí sẽ gây bệnh cho người khác.

Để phòng tránh bệnh cần lưu ý:

- Người bị viêm kết mạc cần nghỉ học, nghỉ làm, hạn chế đến nhũng nơi đông người để tránh lây cho người khác.

- Nên ngừng đeo kính áp tròng vài ngày khi có viêm kết mạc cấp.

- Sử dụng đồ vật riêng, không dụi tay lên mắt. Rửa tay trước và sau khi tra thuốc. Khi bắt buộc phải sử dụng các đồ vật chung phải rửa tay bằng xà phòng trước. Sau khi khỏi bệnh cần rửa sạch kính đeo mắt bằng xà phòng để tránh tái nhiễm.

- Không vứt bừa bãi bông gạc sau khi sử dụng thấm rửa mắt. Thường xuyên giặt khăn mặt bằng xà phòng và phơi nắng. Các phòng khám cần vệ sinh tay và sát trùng dụng cụ đúng quy trình.

- Vệ sinh môi trường, nhà cửa sạch sẽ.