Google News

Cách làm bài thi môn Văn đạt điểm cao

Thí sinh trong phòng thi
Thí sinh trong phòng thi
TPO - Nếu tuân thủ tốt các "tuyệt chiêu" dưới đây, các em sẽ có được một bài thi đại học môn văn đạt kết quả rất cao, thậm chí đạt điểm tuyệt đối.
Thí sinh trong phòng thi
Thí sinh trong phòng thi. Ảnh: Hồng Vĩnh

Một bài văn thực sự đạt kết quả tốt, cần đáp ứng đượccác yêu cầu về nội dung của đề bài (như kiểu bài, các kĩ năng và thaotác nghị luận, kiến thức, phạm vi dẫn chứng…) và yêu cầu về hình thức(trình bày, diễn đạt…).

1. Nắm vững cấu trúc và mức độ của đề thi

Trong tài liệu phục vụ việc ra đề thi tuyển sinh vàođại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, ở phần II - Về cấu trúc vàmức độ yêu cầu của đề thi - Bộ GD&ĐT có khuyến nghị:

"Nên chia đề thi thành nhiều phần để tiện kiểm tra vềkiến thức và kĩ năng được rộng hơn và nhất là để việc chấm thi đượcchính xác và thuận lợi hơn. Đề thi cần ghi rõ số điểm dành cho từngphần.

Ngoài những đề yêu cầu trình bày sự cảm nhận, phântích... liên quan đến một tác phẩm (hoặc một khía cạnh, một đoạntrích... của tác phẩm), cần có những đề tổng hợp yêu cầu vận dụng sựhiểu biết về nhiều tác phẩm.

Không nên ra những đề quá khó và nhất là cần tránh những đề thí sinh có thể sao chép tài liệu một cách dễ dàng" (trang 74).

Kì thi đại học, cao đẳng năm 2008, đối với môn Văn, BộGD&ĐT chủ trương vẫn tiếp tục thi đề tự luận. Việc chia nhỏ đề thithành nhiều câu nhằm kiểm tra được nhiều phạm vi kiến thức và nhiều kĩnăng hơn.

Đề thi tuyển sinh (đề chung) vào các trường đại học vàcao đẳng môn văn, theo lộ trình đổi mới giáo dục và cải tiến thi cử,đánh giá của Bộ GD&ĐT, năm 2008, về cơ bản, có kết cấu gồm 2 phầnvới 3 câu hỏi.

Phần chung cho tất cả thí sinh, gồm câu I và câu II.Phần tự chọn gồm câu IIIa dành cho chương trình chưa phân ban và câuIIIb dành cho chương trình phân ban thí điểm.

Thí sinh chỉ được chọn làm một trong hai câu này,không nhất thiết phải theo đúng ban mình đã theo học, nhưng không đượclàm cả hai câu. Trường hợp làm cả hai câu, sẽ bị hủy phần bài làm này,

a. Câu I, thường 2 điểm, nhằm kiểm tra kiến thức cơ bản, phổ thông và khái quát nhất như:

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt những đặc điểm chính về con người, cuộc đời của một nhà văn.

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt sự nghiệp văn học của một tác giả.

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt quan điểm sáng tácvăn học (quan điểm nghệ thuật) của một tác giả (chỉ có ở 2 tác giả NamCao và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh).

- Trình bày những nét chính trong phong cách nghệthuật của một tác giả (chỉ có ở 3 tác giả Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,Nguyễn Tuân và Tố Hữu).

- Trình bày ngắn gọn, hoặc tóm tắt hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm.

- Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.

- Khái quát ngắn gọn giá trị tư tưởng nghệ thuật, nhất là giá trị nhân đạo, của một tác phẩm.

- Nêu hoặc phân tích ngắn gọn nhưng đặc điểm và thành tựu chính của giai đoạn văn học 1945 - 1975.

Ở câu này, mấy năm trước, đáp án của Bộ cho phép thísinh trả lời theo hình thức gạch đầu dòng. Nhưng tôi khuyên các emkhông nên viết theo cách ấy vì tâm lý người chấm thi môn văn đánh giárất thấp kiểu viết gạch đầu dòng.

b. Câu II, thường 5 điểm, hay kiểm tra năng lực cảmthụ văn xuôi, phân tích nhân vật, tác phẩm văn xuôi hoặc một vấn đề vănhọc sử hay lí luận văn học nào đó. Ví dụ câu 2 đề khối D năm 2007, yêucầu phân tích vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ Tràng giang (Huy Cận).

c. Câu IIIa và IIIb, thường 3 điểm, nhằm kiểm tra nănglực cảm thụ thơ, phân tích hoặc bình giảng 1 khổ hoặc 1 đoạn thơ ngắn,như câu 3 đề khối C năm 2007, yêu cầu cảm thụ 10 dòng đầu bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm.

Cũng có thể yêu cầu phân tích một hình tượng nhỏ như hình tượng ánh trăng, mảnh trăng trong Mảnh trăng cuối rừng, hình tượng rừng xà nu, cây xà nu trong Rừng xà nu.

Nếu làm tốt, các em có thể đạt điểm tuyệt đối ở câu I,nhưng để đạt được số điểm trọn vẹn ở câu II và câu IIIa, IIIb thì vôcùng khó, nếu như không muốn nói là không thể, trừ số ít thí sinh rấtxuất sắc.

Ngoài ra, không loại trừ trường hợp đề thi sẽ bớt điểmsố ở câu 2 hoặc câu 3 để có thêm một câu hỏi (câu 4, làm trong thờigian 18 phút) khoảng 1 điểm, nhằm phân hóa trình độ thí sinh.

Câu hỏi này sẽ khó hơn, đòi hỏi thí sinh phải có nănglực tư duy và diễn đạt. Chẳng hạn: So với trước Cách mạng, phong cáchnghệ thuật của Nguyễn Tuân sau Cách mạng có biến đổi nào đáng chú ý? Vìsao Nguyễn Tuân lại tìm đến thể loại tùy bút như một điều tất yếu.

2. Xác định đầy đủ, chính xác yêu cầu của đề

Trước khi làm bài, các em cần đọc kĩ đề và xác địnhđầy đủ yêu cầu của đề thi về các phương diện như kiểu bài: xác định xemđề bài yêu cầu sử dụng kĩ năng nghị luận nào: trình bày, giải thích,chứng minh, bình giảng, phân tích, so sánh hay kiểu bài tổng hợp đòihỏi kết hợp nhiều kĩ năng nghị luận);

Đối tượng và nội dung nghị luận: Đề bài yêu cầu giải quyết vấn đề gì?;

Phạm vi kiến thức và dẫn chứng: Để giải quyết vấn đềđó, cần huy động và sử dụng những kiến thức và dẫn chứng nào cho phùhợp và có sức thuyết phục cao nhất);

Đồng thời, các em xác định nội dung và hình thức trình bày bài viết. Điều này sẽ giúp bài văn không bị lạc đề, xa đề.

Các em nên xác định yêu cầu của đề thi trong thời giannhanh nhất, để dành thời gian làm bài. Phải cố gắng làm hết tất cả cáccâu trong yêu cầu của đề bài, không được bỏ sót ý nào, dù là nhỏ nhất.

Nếu bỏ 1 câu, thì 2 câu còn lại có làm tốt đến đâu đinữa, điểm số của bài vẫn thấp hơn khi làm đủ 3 câu, dù các câu làm chưathật tốt, thậm chí còn sơ sài.

Trong biểu điểm của Bộ GD&ĐT, trước khi phân tích,bình giảng, ngay phần giới thiệu tác phẩm và hoàn cảnh ra đời của tácphẩm cũng được 0,25 điểm, mà phần này chỉ cần viết vài dòng. Các em hãychắt chiu từng chút điểm nhỏ như thế, bởi một bài văn có điểm cao baogiờ cũng được làm nên từ những điểm số nhỏ trong từng ý, từng câu nhưthế.

3. Vận dụng chính xác, linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghị luận

Để bài văn đạt kết quả cao, cần vận dụng chính xác,linh hoạt, nhuần nhuyễn các kiểu bài, các kĩ năng và thao tác nghịluận. Các em nên tập trung rèn luyện năng lực trình bày tóm tắt 1 vấnđề văn học, năng lực cảm thụ văn học và các kiểu bài so sánh, phântích, bình giảng văn học (nhất là phân tích văn xuôi và bình giảng thơ).

Đây là những kiểu bài thể hiện chất văn chương rõ nétnhất, và thường hay thi nhiều nhất. Các em cũng cần vận dụng nhuầnnhuyễn các kiểu bài sau:

* Phương pháp làm các kiểu bài trình bày tóm tắt một vấn đề văn học.

* Phân tích văn học là kiểu bài nghị luận đem một hiệntượng văn học (tác phẩm, vấn đề) chia nhỏ ra thành từng bộ phận hayphương diện để xem xét từng phần rồi đem kết quả tổng hợp lại trong mộtkết luận chung.

Phân tích văn học là chỉ ra các giá trị nội dung, nghệthuật qua các chi tiết cụ thể. Không cần và không thể phân tích mọi chitiết. Chỉ cần chọn phân tích những chi tiết tiêu biểu nhất, nói lên tưtưởng quan trọng của nhà văn, phù hợp với chủ đề phân tích của đề bài.

Các kiểu bài phân tích văn học thường có trong đề thilà: Phân tích tác phẩm hoặc một đoạn tác phẩm, phân tích hình tượngnhân vật, phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật, phân tích các vấn đềvăn học, phân tích chi tiết nghệ thuật và nhan đề tác phẩm.

* Bình giảng văn học (đề thi thường chỉ yêu cầu bìnhgiảng thơ): là giảng giải, đánh giá, bình phẩm về nghĩa lí, ý tứ củabài văn, lời văn, giúp cho người đọc cảm thụ và đánh giá tác phẩm vănhọc một cách toàn vẹn.

Bình giảng văn học chỉ khám phá những điểm nút, nhữngtừ ngữ chìa khoá, những thi nhãn, những mạch ngầm để mở đường thưởngthức văn bản, chứ không che lấp hay thay thế văn bản nghệ thuật.

Khi bình giảng, cần chú ý tới những chỗ trống, chỗ lạhoá, khác thường trong văn bản, đặc biệt là cách cấu tạo hình tượng,các chi tiết giàu ý nghĩa, các từ ngữ dùng đắt hoặc kết hợp đặc biệt.

Từ chỗ độc đáo đặc thù đó, tìm đến mạch lạc bên trongcủa bài thơ, bài văn, khám phá mối liên hệ không gian, thời gian, cáchcảm nhận riêng của tác giả cũng như cấu tứ, bố cục của tác phẩm.

Khi bình giảng thơ, để hệ thống ý của bài văn đượcchặt chẽ, điều quan trọng nhất là phải hiện ra cấu trúc của đoạn thơ,bài thơ. Đối với các bài thơ, đoạn thơ có sử dụng hình thức lặp cấutrúc, liệt kê, điệp từ như Tâm tư trong tù, Việt Bắc, Đất nướccủa Nguyễn Khoa Điềm thì khi bình giảng, để tránh bài viết lặp lại mộtcách nhàm chán, tuyệt đối không được bình từng dòng, mà phải nhóm cácchi tiết, hình ảnh thành một hệ thống, rồi mới giảng và bình về hệthống ấy.

Chẳng hạn 9 dòng đầu của đoạn thơ Đất nước(Nguyễn Khoa Điềm), có sự lặp đi, lặp lại của điệp khúc“Đất Nước đãcó…”, “Đất Nước có trong…”, “Đất Nước bắt đầu…”, “Đất Nước lớn lên…”,“Đất Nước có từ…” cho thấy nhà thơ trầm tư suy ngẫm về thời điểm ra đờicủa Đất Nước (gồm các dòng 1,3,9), quá trình lớn lên (dòng 4) và phạm vi tồn tại của Đất Nước (dòng 2).

Vì vậy, khi bình giảng đoạn thơ này, cần chú ý nhómcác dòng thơ 1,3,9 thành một ý, dòng 4 là một ý và dòng 2 là một ý. Từ“ngày đó” là phép thế đại từ có ý nghĩa thay thế cho các dòng 5,6,7,8,nên để hiểu được ý nghĩa dòng thơ thứ 9, cần hiểu được các dòng thơtrước đó.

----------------------

Còn nữa...

Thạc sĩ Phạm Hữu Cường
Email: cuongvans@gmail.com