Sinh viên ít nghiên cứu khoa học
Chiều 29/8, tại TPHCM, hội thảo “Vai trò của thông tin khoa học và công nghệ trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội” do Tạp chí Một Thế Giới tổ chức đã diễn ra với sự tham dự của lãnh đạo các cơ quan Trung ương, bộ ngành, trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp cùng đông đảo chuyên gia, nhà khoa học và sinh viên.
Tại một phiên thảo luận, nhiều ý kiến đã được đưa ra liên quan đến nghiên cứu trong trường đại học, thực trạng đổi mới sáng tạo tại TPHCM, chuyển đổi số trong hạ tầng đô thị, cũng như y học hạt nhân trong điều trị ung thư.
PGS.TS. Đỗ Văn Hùng, Phó Chủ tịch Hội Thông tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam, nêu vấn đề sinh viên ít tham gia nghiên cứu khoa học và đặt câu hỏi cho GS.TS. Lê Trường Tùng, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học FPT.
Trả lời, GS.TS. Lê Trường Tùng cho rằng mặc dù nhiều nghị quyết, chính sách đã khẳng định vai trò nòng cốt của trường đại học và viện nghiên cứu trong phát triển khoa học - công nghệ, nhưng khi thực hiện còn nhiều trở ngại.
“Trở ngại lớn nhất hiện nay là sinh viên thường tập trung vào học tập, trong khi nghiên cứu chủ yếu do giảng viên đảm nhận. Chính vì vậy, số sinh viên tham gia nghiên cứu trực tiếp còn rất ít”, ông Tùng nói.
Theo ông Tùng, nguyên nhân sâu xa xuất phát từ cách dạy và học chưa định hướng nghiên cứu, khiến sinh viên thiếu thói quen, kỹ năng. Một thách thức khác là việc tiếp cận nguồn thông tin khoa học. Nhiều tài liệu, dữ liệu cần thiết có bản quyền, giới nghiên cứu vốn đã khó tiếp cận, sinh viên lại càng khó hơn.
Không chỉ trong lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu khoa học cũng là thách thức với các doanh nghiệp. Ở góc độ quản lý, bà Nguyễn Hoàng Bảo Trân, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM, cho rằng thành phố có tiềm lực mạnh về khoa học - công nghệ và nhu cầu đổi mới sáng tạo ngày càng lớn. Tuy nhiên, quá trình đổi mới ở các ngành và doanh nghiệp chưa đồng bộ, thiếu cơ chế chung và nguồn dữ liệu thống nhất.
Bà Trân nhận định, nghiên cứu khoa học thường mang tính hàn lâm, trong khi doanh nghiệp cần kết quả gắn với thực tiễn sản xuất - kinh doanh. Khoảng cách này dẫn đến sự liên kết còn yếu. Do đó, cần có cơ chế kết nối hiệu quả, trong đó các nhà quản lý đóng vai trò cầu nối giữa giới khoa học và doanh nghiệp.
Ứng dụng AI trong y học, hạ tầng đô thị
Ngoài thách thức, trong khuôn khổ hội thảo, nhiều chuyên gia đã chỉ ra những thành tựu về việc ứng dụng AI trong y học, hạ tầng đô thị.
TS.BS Nguyễn Ngọc Bảo Hoàng, Phó phòng Nghiên cứu và Phòng chống ung thư, Bệnh viện Chợ Rẫy, cho biết tỷ lệ tử vong do ung thư tại Việt Nam cao ngang ngửa tim mạch.
Bệnh viện Chợ Rẫy đã ứng dụng AI trong điều trị, dùng robot mổ ca khó, cắt u bằng tia nước, triển khai kỹ thuật xạ trị cho ung thư mắt. Đặc biệt, công nghệ PET toàn thân đang tạo bước tiến quan trọng khi có khả năng phát hiện sớm bất thường ở cấp độ tế bào, hỗ trợ chẩn đoán và theo dõi ung thư, tim mạch, thần kinh.
Ngoài ra, phương pháp proton FLASH radiotherapy (xạ trị suất liều siêu cao bằng hạt proton) đã có dữ liệu bệnh nhân đầu tiên và bước vào thử nghiệm lâm sàng tiếp theo. Thử nghiệm FAST-01 cho thấy tính khả thi, an toàn và hiệu quả trong giảm đau di căn xương chi.
Còn ở lĩnh vực thoát nước đô thị, TS. Nguyễn Văn Đắng, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn (SAWACO), nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyển đổi số và AI trong phát triển đô thị thông minh.
Ông Đắng cho biết SAWACO đã số hóa toàn diện hệ thống quản lý cấp nước, ứng dụng AI trong chăm sóc khách hàng và đào tạo nhân sự. Hệ thống giám sát từ xa theo thời gian thực đã giúp giảm thất thoát nước xuống mức thấp chưa từng có, được xem là “quả ngọt” sau nhiều năm kiên định với chiến lược chuyển đổi số. AI cũng được áp dụng trong dịch vụ khách hàng, giúp xử lý nhanh hơn, chính xác hơn, nâng cao sự hài lòng của người dân.
“Để TPHCM trở thành đô thị số, cần ưu tiên công nghệ trong các lĩnh vực then chốt như y tế, giáo dục, quản trị đô thị, dịch vụ công, điện và nước”, ông Đắng nói.