Google News

Việt Nam cần tới 8,5 tỷ USD giải quyết bài toán ô nhiễm nhựa

TPO - Theo Báo cáo Lộ trình tài chính cho hành động về nhựa tại Việt Nam đến năm 2030, ước tính tổng nhu cầu tài chính cho các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm nhựa ở nước ta lên tới khoảng 7,5–8,5 tỷ USD với trọng tâm là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.

Lập bản đồ hơn 160 dự án giải quyết ô nhiễm nhựa

Chương trình Đối tác Hành động Quốc gia về Nhựa (NPAP) Việt Nam chính thức công bố Lộ trình Tài chính cho hành động về nhựa đến năm 2030, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nỗ lực huy động nguồn lực nhằm thúc đẩy chuyển dịch sang kinh tế tuần hoàn nhựa và giảm thiểu ô nhiễm nhựa tại Việt Nam. Sự kiện cũng đồng thời đánh dấu 5 năm hoạt động của Chương trình NPAP kể từ khi được thành lập vào năm 2020.

Trong bối cảnh ô nhiễm nhựa đại dương là vấn đề môi trường nghiêm trọng thứ hai toàn cầu, chỉ sau biến đổi khí hậu, năm 2020, Chương trình Đối tác Hành động Quốc gia về Nhựa (NPAP) tại Việt Nam ra đời, chủ trì bởi Chương trình Phát triển Liên hợp quốc UNDP Việt Nam.

Đây là nền tảng đối tác đa phương, đa chủ thể được thiết lập dựa trên hợp tác chính thức giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam và Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), cho phép thực hiện hợp tác giữa chính phủ và các đối tác quan trọng khác để hiện thực hóa những cam kết về rác thải nhựa và ô nhiễm nhựa.

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành, vấn đề ô nhiễm nhựa là thách thức lớn đối với xã hội hiện đại. Rác thải nhựa đã có mặt khắp mọi nơi từ khu đô thị đến vùng nông thôn và cả đại dương, rác thải nhựa đã và đang tác động tiêu cực đến động vật hoang dã, hệ sinh thái và sức khỏe của con người. Điều này đòi hỏi chúng ta cần hành động kịp thời, quyết liệt hơn để giảm thiểu những tác động xấu này.

tp-abcxyz-14-438.jpg
Việt Nam đối mặt với tình trạng ô nhiễm rác thải nhựa nghiêm trọng trong những năm qua.

Trong những năm qua, Việt Nam đã từng bước chuyển hóa nhận thức đó thành các hành động cụ thể. Việc ban hành các quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, cũng như lồng ghép nội dung giảm thiểu nhựa vào các chiến lược phát triển đã thể hiện rõ định hướng này. Tuy nhiên, ông cho rằng, chính sách chỉ thực sự có ý nghĩa khi được triển khai hiệu quả trên thực tế.

Thứ trưởng đánh giá cao vai trò của Chương trình Đối tác Hành động Quốc gia về Nhựa Việt Nam, nhận định đây là cơ chế hợp tác hiệu quả, nơi các bên cùng xác định vấn đề, cùng thử nghiệm giải pháp, chia sẻ kinh nghiệm triển khai và hướng tới những kết quả, tác động rõ nét và bền vững.

Theo bà Ramla Khalidi, Trưởng Đại diện UNDP Việt Nam, chương trình đối tác đã có 200 tổ chức đã tham gia, lập bản đồ hơn 160 dự án giải quyết ô nhiễm nhựa, qua đó xúc tác cho hơn 570 giải pháp đổi mới sáng tạo.

Cần thêm nguồn lực khổng lồ cho giai đoạn tới

Theo Báo cáo Lộ trình tài chính cho Hành động về nhựa tại Việt Nam đến năm 2030, ước tính tổng nhu cầu tài chính cho các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm nhựa ở nước ta lên tới khoảng 7.5–8.5 tỷ USD.

Báo cáo đưa ra một số khuyến nghị trọng tâm nhằm thúc đẩy chuyển dịch sang kinh tế tuần hoàn nhựa tại Việt Nam. Các khuyến nghị tập trung vào việc hoàn thiện khung chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất theo hướng minh bạch và hiệu quả hơn.

tp-abcxyz-25-3423.jpg
Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần giảm rác thải nhựa theo hướng thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, đồng thời tăng cường tái chế.

Báo cáo đồng thời đề xuất xây dựng các tiêu chuẩn cho nhựa tái chế, mở rộng các công cụ tài chính để thu hút đầu tư tư nhân và tăng cường lồng ghép khu vực lao động tự do. Ngoài ra, cần phát triển thị trường tái chế và nâng cao năng lực quản lý chất thải tại đô thị và vùng ven đô thông qua tăng cường tài chính địa phương và đầu tư hạ tầng theo mô hình hợp tác công tư.

Bên cạnh mục tiêu tài chính, Ban Thư ký NPAP Việt Nam kỳ vọng tăng cường phối hợp thể chế giữa các cơ quan quản lý và phát triển hệ sinh thái thị trường tái chế đồng bộ, đặt mục tiêu lồng ghép và hỗ trợ khu vực phi chính thức trong quản lý chất thải nhựa. Đồng thời, quản lý chất thải tại khu vực đô thị và ven đô.

Thứ trưởng Lê Công Thành chia sẻ, chúng ta thường nói đến những con số rất lớn khối lượng rác thải, chi phí xử lý, hay mức độ tác động đến môi trường và hệ sinh thái. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn không chỉ nằm ở các con số, mà ở cách lựa chọn ứng phó với thách thức này.

Theo lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Việt Nam đã chủ động lựa chọn một hướng tiếp cận mang tính phòng ngừa và chuyển đổi, thay vì chỉ tập trung xử lý các hậu quả phát sinh.

Việt Nam xác định rằng ô nhiễm nhựa không đơn thuần là một vấn đề về môi trường, mà là vấn đề của phát triển kinh tế - xã hội, gắn chặt với mô hình sản xuất - tiêu dùng, với cấu trúc thị trường và với cách thức huy động các nguồn lực của xã hội.

Do đó, giải pháp cho ô nhiễm nhựa không thể chỉ dừng lại ở khâu thu gom hay xử lý, mà cần một cách tiếp cận mang tính hệ thống, dựa trên chính sách phù hợp, cơ chế thị trường, đổi mới sáng tạo và hợp tác đa bên.

tp-abcxyz-18-5205.jpg
Việt Nam sẽ thúc đẩy các mô hình kinh doanh về thu gom, tái chế và xử lý chất thải nhựa đúng quy chuẩn tiêu chuẩn môi trường.

Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, Bộ sẽ tiếp tục đồng hành chặt chẽ cùng các đối tác trong nước và quốc tế, cùng nhau đưa Chương trình NPAP Việt Nam bước sang giai đoạn triển khai sâu hơn, thực chất hơn, hướng tới những tác động ngày càng rõ nét và bền vững.

Một số nội dung trọng tâm sẽ được Việt Nam triển khai trong thời gian tới là thúc đẩy huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho các hành động về nhựa, với trọng tâm là tăng cường tính kết nối, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân và tạo điều kiện thuận lợi để các nguồn vốn trong nước và quốc tế được chuyển hóa thành các dự án và sáng kiến cụ thể.

Bên cạnh đó, hoàn thiện các cơ chế chính sách chuyển đổi mô hình kinh doanh về thu gom, tái chế và xử lý chất thải nhựa đúng quy chuẩn tiêu chuẩn về môi trường, coi đây là một động lực quan trọng để mở rộng quy mô và nhân rộng các giải pháp hiệu quả.

Ngoài ra sẽ thực hiện gắn kết các hành động về nhựa với các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam, nhằm góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng sống của người dân, thúc đẩy tăng trưởng xanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.