Kỳ thi nho học đầu tiên của nước ta được tổ chức lần cuối cùng vào năm bao nhiêu?
Giải thích Câu trả lời đúng là B: Kỳ thi nho học đầu tiên của nước ta được tổ chức vào năm 1075 (dưới thời vua Lý Nhân Tông), kỳ thi cuối cùng được tổ chức vào năm 1919 (thời vua Khải Định). Có tất cả 185 kỳ thi được tổ chức. Học vị cao nhất trong các kỳ thi dưới thời phong kiến là trạng nguyên. Tuy nhiên ở nước ta, danh hiệu này chỉ bắt đầu xuất hiện từ kỳ thi năm 1247, kết thúc năm 1736. Các kỳ thi trước và sau đó đều không lấy trạng nguyên.
Dưới triều Nguyễn, học trò ngày xưa sẽ bị phạt thế nào khi mang tài liệu vào phòng thi?
Giải thích Câu trả lời đúng là A: Dưới thời phong kiến, các quy định liên quan khoa cử thường rất nghiêm ngặt. Theo sách "Đại Nam Hội điển sự lệ", triều Nguyễn quy định thí sinh không được mang tài liệu vào trường thi, không được nói chuyện ồn ào, lộn xộn, phải đóng dấu “nhật trung” - xác định bài thi được làm tại trường thi, cấm ngồi không đúng chỗ quy định, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên, cấm kê khai gian lận tên tuổi, cấm nộp bài trễ hạn. Sĩ tử vi phạm sẽ bị phạt rất nặng. Người bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị gông (cùm) một tháng, sau đó bị đánh 100 roi; nói chuyện ồn ào thì truy tội cả thí sinh lẫn các vị quan đốc học; giáo thụ và huấn đạo ở địa phương có thí sinh vi phạm. Bài thi cũng có những quy định khác, rắc rối và ngặt nghèo hơn, chủ yếu là lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị (phải biết tránh chữ húy). Đó là tên của tất cả đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua, tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua, con vua, vợ vua. Bài phạm húy chắc chắn bị đánh hỏng. Sau khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang nghĩa là bài thi thiếu phần tao nhã, dùng những từ thô tục về ngữ nghĩa và âm luật, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm. Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu... thì phải tự động sang hàng và đài (nâng cao lên trong dòng chữ), nếu không sẽ mắc lỗi khiếm đài. Bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét, một chấm xem như mắc lỗi, phạm luật. Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã xóa, bỏ sót, sửa chữa.
Trước thời gian thi 4 tháng, thí sinh muốn dự thi phải ghi danh tại địa phương để xem xét tư cách đạo đức, lý lịch. Điều này đúng hay sai?
Giải thích Câu trả lời đúng là A: Dưới thời phong kiến, trước thời gian thi 4 tháng, thí sinh muốn dự thi phải ghi danh tại địa phương để xem xét tư cách đạo đức, lý lịch. Người chịu tang cha, mẹ, ông bà nội mà phải lo việc thờ phụng, thì không được tham gia kỳ thi. Người bất hiếu, không hòa thuận với anh em, tàn bạo cũng không được thi. Người thân với kẻ phạm tội đã bị chém, giảo (thắt cổ), đi đày, sung quân (kể cả đã được tha về) cũng không được thi. Nếu là kẻ tòng phạm theo giặc nhưng không có chức tước, hoặc chức nhỏ, con cháu không được thi. Nếu đã ra đầu thú, lập công được giảm án, cháu được đi thi. Nếu là kẻ tòng phạm nhưng bị giặc ức hiếp phải theo, chẳng có chức tước gì, con không được đi thi.
Con trai nhà bác học nổi tiếng Lê Quý Đôn bị xử tội ở khoa thi Hội năm nào?
Giải thích Câu trả lời đúng là A: Năm 1775, trong kỳ đệ tứ khoa thi Hội dưới thời vua Lê Hiển Tông, con trai nhà bác học nổi tiếng Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt, đã đổi quyển thi cho một thí sinh khác tên Đinh Thì Trung. Khi sự việc bị phát giác, Thì Trung bị đày ra Yên Quảng, Quý Kiệt bị tước bỏ học vị cho về làm thứ dân, rồi bắt giam vào ngục cửa Đông, một thời gian sau mới được thả.
Tiến sĩ Ngô Sách Tuân bị xử tội chết vào khoa thi năm 1696 vì lí do gì?
Giải thích Câu trả lời đúng là B: Kỳ thi cuối năm 1696, Tham tụng (người đứng đầu chính quyền trong phủ chúa Định Nam vương Trịnh Căn) là Lê Hi gửi gắm con mình trong kì thi Hương cho Sách Tuân, nhưng cuối cùng quyển thi của con Lê Hi vẫn bị đánh trượt. Sách Tuân ngầm đưa quyển thi của con Lê Hi cho các khảo quan duyệt lại lần nữa, sửa từ bị đánh trượt sang lấy đỗ. Phó đô ngự sử Ngô Hải biết chuyện nhưng ém đi không tâu báo. Sau khi sự việc bị phát giác, Sách Tuân bị xử giảo (thắt cổ chết). Ngô Hải bị bãi chức, các quan phúc, giám khảo đều bị phạt. Lê Hi là chủ mưu nhưng là quan to thì lại thoát tội.
Nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam là ai?
Giải thích Câu trả lời đúng là A: Nguyễn Thị Duệ sinh ngày 14/3/1574 ở Kiệt Đặc, nay là phường Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. ... Năm 10 tuổi, Nguyễn Thị Duệ đã nổi tiếng là vừa đẹp người, lại đẹp nết, khiến nhiều gia đình quyền quý đến xin cưới hỏi, nhưng gia đình bà đều không ưng thuận Ở tuổi đôi mươi, Nguyễn Thị Duệ giả nam đi thi và đỗ trạng nguyên. Tài năng, đức độ của nữ tiến sĩ đầu tiên được vua trọng dụng, dân kính trọng. Giáo dục Việt Nam thời phong kiến coi trọng Nho học, phụ nữ không có quyền tham gia thi cử. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Duệ là ngoại lệ. Bà không chỉ là nữ tiến sĩ đầu tiên ở nước ta, mà còn là nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử khoa bảng. Nguyễn Thị Duệ (hay Nguyễn Thị Du) sinh năm 1574 trong một gia đình nhà nho nghèo ở Chí Linh, Hải Dương. Theo Hải Dương phong vật chí, tên chính xác của bà là Nguyễn Thị Ngọc Toàn.
Thần đồng nào đỗ trạng nguyên khi mới 13 tuổi?
Giải thích Câu trả lời đúng là A: Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên khi mới 13 tuổi chủ yếu nhờ tự học. Vị khai quốc trạng nguyên này xứng đáng với danh hiệu thần đồng. Theo Việt Nam văn hóa sử cương của nhà sử học Đào Duy Anh, năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông, triều đình mở khoa thi đầu tiên nhằm chọn hiền tài phục vụ đất nước. Năm 1247, nhà Trần đặt ra tam khôi - Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Chính trong năm này, thần đồng nhỏ tuổi Nguyễn Hiền thi đỗ trạng nguyên và được vua Trần Thái Tông phong là "Khai quốc Trạng Nguyên" - vị trạng nguyên đầu tiên ở nước ta, theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên. Nguyễn Hiền sinh năm 1234 (một số tài liệu ghi là 1235) ở làng Dương An, huyện Thượng Hiền (nay là xã Nam Thắng, huyện Nam Trực), tỉnh Nam Định. Ông mồ côi cha từ bé và được mẹ cho theo học sư thầy trong làng. Cậu bé Nguyễn Hiền sớm thể hiện tư chất vượt trội, học tập rất nhanh. 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng và được mệnh danh thần đồng. Năm 1247, triều đình mở khoa thi. Nguyễn Hiền, lúc đó mới 13 tuổi, khăn gói lên kinh, dự kỳ thi đình với bài phú "Áp tử từ kê mẫu du hồ phú". Trí tuệ tinh thông giúp ông đạt danh hiệu trạng nguyên - vị trí cao nhất trong tam khôi. Khi vào cung diện kiến nhà vua, vua Trần Thái Tông rất thán phục khả năng ứng đối trôi chảy của trạng nguyên nhỏ tuổi, bèn hỏi ông học thầy nào. Khi nghe Nguyễn Hiền kể ông chỉ tự học, chỗ nào không hiểu thì hỏi sư thầy, vua cho rằng, trạng có tài nhưng còn nhỏ tuổi, chưa hiểu hết lễ nghĩa và phán: "Trạng nguyên niên ấu vị tri lễ hứa hồi gia học lễ đãi tam niên nhi hậu dụng". Vì thế, mặc dù đỗ cao, Nguyễn Hiền chưa được phong chức quan hay mũ áo. Ông trở về quê, tiếp tục đọc sách.
Người Việt duy nhất thi đỗ trạng nguyên ở Trung Quốc là ai?
Giải thích Câu trả lời đúng là A: Khương Công Phụ đã vượt qua các thí sinh khác của Trung Quốc để trở thành trạng nguyên nơi đất khách quê người. Khương Công Phụ (731-805) tự là Đức Văn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển, nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Theo sách Giai thoại Lịch sử Việt Nam, Khương Công Phụ từ bé đã nổi tiếng thông minh, có trí nhớ tuyệt vời. Tương truyền, lúc Khương Công Phụ còn nhỏ, bố ông là Khương Công Dĩnh thấy con sáng dạ nên mừng lắm. Ông tìm người giỏi chữ cùng mở cửa hàng thuốc bắc gần nhà gửi con theo học. Khương Công Phụ tiến bộ rất nhanh khiến thầy giáo phải ngạc nhiên, khen ngợi. Cậu thuộc sách Tứ thư, Ngũ kinh và thấu hiểu nghĩa lý trong Kinh thư, Kinh lễ... Trước khi được tới kinh đô Tràng An của nhà Đường dự thi, Khương Công Phụ phải trải qua rất nhiều kỳ thi sát hạch. Dù về kinh sử hay thơ phú, bài làm của Công Phụ đều đạt xuất sắc. Khương Công Phụ được xếp hàng đầu trong danh sách 8 sĩ tử của 8 quận đất Giao Châu về Tràng An dự thi, dưới triều vua Đường Đức Tông (780-803). Tại kỳ thi này, ông đỗ đầu. Sau khi đỗ trạng nguyên, Khương Công Phụ được vua Đường phong chức Hiệu thư lang (chức quan văn). Sau đó, ông dâng lên vua bài “kế sách trị nước” với nhiều ý tưởng xuất sắc. Vua Đường Đức Tông rất kính nể, phong cho ông những chức vụ cao hơn như Hữu thập di hàn lâm học sĩ, kiêm chức Hộ tào tham quân. Khương Công Phụ là trường hợp “có một không hai” trong lịch sử phong kiến ở Việt Nam, khi là người Việt đầu tiên và duy nhất thi đỗ trạng nguyên, rồi giữ vị trí cao trong bộ máy cai trị của cả đất nước Trung Hoa. Giới nho sĩ qua nhiều thế hệ ca ngợi Khương Công Phụ không chỉ tài năng văn chương, mà còn có phẩm chất, tư cách của một “kẻ sĩ” xuất chúng.
Kết quả
Bạn hãy chăm chỉ hơn nhé!
Điểm
Học trò ngày xưa sẽ bị phạt thế nào khi mang tài liệu vào phòng thi?