Cũng bởi, nghề làm giò chả muốn phát triển thì phải bám vào khu dân cư thành thị. Thành ra, làng quê yên bình ấy vắng hoe, chỉ còn người già và trẻ em. Giữ được nghề cha ông đấy, nhưng nhiều lão niên trong làng lại buồn, cũng bởi điều ấy...
Nghề truyền thống
Cứ về Ước Lễ ngày thường, chỉ thấy người già và trẻ em. Một không gian yên bình với la đà khói hương phảng phất nơi mái chùa cong vút. Những con ngõ rêu phong, những bức tường đổ màu thời gian gợi nỗi niềm lưu luyến. Chất quê vẫn chưa phai nơi mảnh đất này. Con người vẫn đậm tình đậm nghĩa, thật thà chất phác. Nhiều cụ già giỏi nghề, giờ không làm việc, buồn chân buồn tay, có lúc đòi con cháu đưa theo ra phố để “giã một mẻ giò”.
Làng Ước Lễ giờ vắng bóng tiếng chày giò.
Nhưng nào có được. Giờ ít ai giã giò bằng tay. Công đoạn ấy đã được máy móc làm thay. Nhưng lạ lắm, đó là cái cốt của con người làng quê hay lam hay làm.
Đến 90% người dân mang nghề giò chả đi xa, lập nghiệp và thành công. Thương hiệu ấy đã và đang được trải ra khắp trong Nam, ngoài Bắc. Có nghĩa là, người Ước Lễ tảo tần, chịu khó, luôn cầu thị và hễ nơi nào có thể làm ăn được là tìm đến.
Ở Hà Nội, lãng đãng những con phố, nơi tiếp nhận ôm chứa nhiều người dân lành hiền của Ước Lễ mở cửa hàng làm giò chả. Họ sống thật, làm thật. Kiếm sống bằng nghề của cha ông để lại, thì cũng phải có trách nhiệm bảo lưu tiếng thơm và thương hiệu cha ông.
Đó là một quan niệm đã ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân, trong đó có vợ chồng ông Trần Công Châu và Tô Thị Duyên, đã mấy chục năm mang nghề ra Thủ đô lập nghiệp. Bà Duyên bảo rằng, từ khi sinh ra đã thấy cha mẹ làm nghề. Công việc vất vả, nhưng cuộc sống cũng chẳng đến nỗi. Khi bà đi lấy chồng, thì đương nhiên, cha mẹ cũng muốn con cái có cái nghề. “Nghe các cụ nói lại, nghề truyền thống của làng đã tồn tại mấy chục năm. Dường như ai cũng tin rằng, nghề sẽ không bao giờ mai một.
Cũng bởi người dân luôn có ý thức giữ nghề. Mà để giữ được, trước hết là nhờ vào uy tín. Tôi là người làng Ước Lễ, lớn lên trong tiếng giã nem giò. Cả gia đình tôi hiện vẫn dốc lòng cho công việc này”. Từ nhỏ, những người như bà Duyên, ngoài buổi học ở trường thì thường phụ giúp cha mẹ giã thịt, làm giò rồi bán hàng. “Làm giò chả phải lấy thịt từ sáng sớm ở các lò mổ, lúc đó thịt vừa làm thịt tươi, còn ấm, giã giò mới ngon. Mỗi sáng là cả gia đình phải dậy sớm giã giò bằng cối phỏng cả tay”, bà Duyên tâm sự.
Còn nhớ, từ khoảng năm 1983 đến 2000, nhu cầu tiêu thụ của người dân quanh khu vực gần Ước Lễ không nhiều. Cũng như nhiều người khác, vợ chồng bà Duyên quyết định mang nghề truyền thống của gia đình khăn gói xuống Hà Nội lập nghiệp. Quãng thời gian đó, gia đình sản xuất và kinh doanh nem, giò bằng cách bán trực tiếp tại các cửa hàng trong Hà Nội và một số vùng lân cận như Thạch Thất, Chương Mỹ, Xuân Mai...
Đây cũng là quãng thời gian vất vả nhất khi nem giò sản xuất ra không bán được, liên tục bị ế ẩm do cửa hàng chưa có thương hiệu, cũng như tạo được độ uy tín với khách hàng, lại phải cạnh tranh với cơ sở sản xuất khác. Một số người đã phải chuyển nghề khác. Vợ chồng bà Duyên vẫn giữ nghề, lấy việc nâng cao chất lượng, uy tín để dần tìm kiếm khách hàng.
Để làm ra những chiếc giò lụa thơm ngon cũng trải qua nhiều công đoạn. Giò quả được gói trong lá chuối có kích thước to bản, lá cũng phải được chọn kĩ từ những cây chuối hột đã lớn vừa đủ để có được mùi thơm nhất.
Anh Trần Thắng Mỹ (SN 1984), một người đã tiếp nhận được nghề mà cha mẹ truyền lại, tâm sự rằng, làm nghề phải đưa đạo đức kinh doanh lên hàng đầu. Phải chăng vì thế, công việc làm ăn của anh, cũng như của những người trẻ đang “giữ lửa” nghề của làng chẳng những thuận lợi, mà uy tín cũng được nâng lên?