Xoay quanh những nội dung cốt lõi, điểm mới của Chương trình, phóng viên đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Phan Lê Thu Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ Y tế), Thư ký Ban Chỉ đạo, Phó Trưởng ban Thường trực Ban soạn thảo, Tổ trưởng Tổ biên tập xây dựng Chương trình.
Lần đầu tiên chăm sóc xã hội cho người yếu thế được xác định là một ưu tiên
Thưa bà, nên hiểu như thế nào về bối cảnh của quá trình Chương trình Mục tiêu Quốc gia Chăm sóc sức khỏe, Dân số và phát triển giai đoạn 2026–2035, nhất là khi hệ thống y tế đang đối mặt với những thách thức mới?
PGS.TS Phan Lê Thu Hằng: Hệ thống y tế trên toàn cầu trong mấy năm gần đây đang chịu sức ép từ hàng loạt thách thức chưa từng có tiền lệ. Cạnh tranh địa chính trị, chiến tranh thương mại, xung đột vũ trang, khủng hoảng năng lượng và biến đổi khí hậu không chỉ tác động trực tiếp tới sức khỏe con người mà còn làm đứt gãy chuỗi cung ứng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ y tế thiết yếu.
Cùng với đó là gánh nặng ngày càng gia tăng của các bệnh không lây nhiễm, nguy cơ xuất hiện dịch bệnh mới, xu hướng già hóa dân số và chi phí y tế tăng cao. Đại dịch COVID-19 đã để lại những hệ lụy sâu rộng, không chỉ kéo lùi nhiều thành tựu y tế mà còn bộc lộ rõ sự mong manh của các hệ thống y tế, kể cả ở những quốc gia có thu nhập cao.
Tại Việt Nam, những thách thức này còn phức tạp hơn do các yếu tố nội tại. Chúng ta đang đối mặt với mô hình bệnh tật kép – vừa phải kiểm soát bệnh truyền nhiễm, vừa phải ứng phó với các bệnh không lây nhiễm ngày càng phổ biến; mô hình dinh dưỡng kép với suy dinh dưỡng, thừa cân béo phì và thiếu vi chất cùng tồn tại. Trong khi đó, hệ thống cung ứng dịch vụ y tế còn phân mảnh, phụ thuộc nhiều vào bệnh viện; năng lực y tế cơ sở và y tế dự phòng chưa theo kịp nhu cầu thực tiễn, còn nguồn lực tài chính dành cho chăm sóc sức khỏe vẫn ở mức khiêm tốn.
So với Chương trình Mục tiêu Quốc gia Y tế – Dân số giai đoạn 2016–2020, Chương trình giai đoạn 2026–2035 có những điểm đổi mới nổi bật nào, thưa bà?
PGS.TS Phan Lê Thu Hằng: Có thể nói, Chương trình giai đoạn 2026–2035 được thiết kế với nhiều điểm mới mang tính căn bản.
Trước hết, nội hàm chương trình được mở rộng đáng kể. Nếu như trước đây trọng tâm chủ yếu là giải quyết một số vấn đề sức khỏe ưu tiên bằng các can thiệp y tế đơn thuần, thì nay Chương trình hướng tới mục tiêu toàn diện hơn: nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của người dân thông qua các can thiệp tích hợp, xuyên suốt từ dự phòng, khám chữa bệnh đến quản lý, nâng cao sức khỏe, trợ giúp xã hội và hỗ trợ cộng đồng. Công tác dân số cũng được mở rộng, tập trung vào nâng cao chất lượng dân số, thích ứng với già hóa dân số và dân số già.
Đặc biệt, lần đầu tiên chăm sóc xã hội cho người yếu thế được xác định là một ưu tiên và được xây dựng thành dự án thành phần trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia lĩnh vực y tế.
Thứ hai, tư duy và phương pháp tiếp cận có sự chuyển đổi rõ nét: từ chú trọng khám, chữa bệnh sang chủ động phòng bệnh, bảo vệ và nâng cao sức khỏe toàn diện, liên tục theo vòng đời; từ các can thiệp dọc sang tăng cường các thành tố cốt lõi của hệ thống y tế như y tế cơ sở và y tế dự phòng.
Thứ ba, cấu trúc chương trình được tinh gọn và tích hợp hơn. Dù phạm vi rộng hơn, Chương trình giai đoạn 2026–2035 chỉ gồm 5 dự án thành phần, thay vì 8 dự án như giai đoạn trước.
Thứ tư, nguồn lực đầu tư tăng mạnh. Riêng 5 năm đầu (2026–2030), tổng vốn thực hiện là 88.635 tỷ đồng, cao gấp 4,5 lần so với tổng vốn của Chương trình giai đoạn 2016–2020.
Thứ năm, thời gian thực hiện kéo dài 10 năm, thể hiện cam kết đầu tư dài hạn.
Cuối cùng, mô thức quản trị được đổi mới theo hướng phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, tăng tính chủ động và linh hoạt cho các địa phương trong phân bổ, điều chỉnh kinh phí trong tổng mức được giao.
Chuyển mạnh từ tư duy "chữa bệnh" sang "phòng bệnh"
Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định nhiều định hướng chiến lược cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Những định hướng này được thể hiện như thế nào trong Chương trình, thưa bà?
PGS.TS Phan Lê Thu Hằng: Chương trình đã bám sát rất chặt chẽ các định hướng chiến lược của Nghị quyết 72-NQ/TW. Từ quan điểm chỉ đạo cho tới thiết kế chương trình đều nhấn mạnh vai trò trung tâm của người dân, hướng tới nâng cao sức khỏe toàn diện và chất lượng cuộc sống thông qua các can thiệp tích hợp.
Đặc biệt, việc ưu tiên nâng cấp, đổi mới y tế cơ sở và y tế dự phòng thể hiện rõ yêu cầu chuyển mạnh từ tư duy “chữa bệnh” sang “phòng bệnh”, chăm sóc sức khỏe liên tục theo vòng đời. Chương trình cũng xác định đúng vị trí của y tế dự phòng, y tế cơ sở và y học cổ truyền; tập trung đầu tư đồng bộ về nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho trạm y tế cấp xã, bảo đảm khả năng phòng bệnh từ sớm, từ xa và sẵn sàng ứng phó với các tình huống khẩn cấp về y tế công cộng.
Những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của Nghị quyết 72 như phát triển nhân lực y tế chất lượng cao, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách nhà nước, thúc đẩy chuyển đổi số… đều được cụ thể hóa trong nội dung Chương trình.
Nhân lực y tế được xem là “điểm nghẽn” lớn, nhất là ở y tế cơ sở. Vì sao Chương trình không xây dựng một dự án tổng thể riêng về phát triển nhân lực y tế, thưa bà?
PGS.TS Phan Lê Thu Hằng: Chương trình Mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2026–2035 không nhằm giải quyết toàn bộ các vấn đề của ngành y tế, mà tập trung vào những yếu tố cốt lõi, mang tính nền tảng và tạo động lực cho sự đổi mới của hệ thống.
Đối với nhân lực y tế, Chương trình lựa chọn đào tạo bác sĩ chuyên khoa cho y tế cơ sở – một can thiệp mang tính đột phá, nhằm trực tiếp tháo gỡ điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thiếu nhân lực chất lượng cao tại tuyến cơ sở. Các nội dung đào tạo khác đã được Bộ Y tế đưa vào các chương trình, đề án riêng như Chương trình Mục tiêu Quốc gia về giáo dục – đào tạo giai đoạn 2026–2035, Đề án phát triển nhân lực y tế chất lượng cao, hay Đề án phát triển nhân lực cho trạm y tế xã.
Cảm ơn bà vì cuộc trò chuyện!