Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập báo Tiền Phong, Trưởng ban tổ chức hội thảo:
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang nỗ lực phục hồi và phát triển, thị trường bất động sản, vốn là một động lực tăng trưởng quan trọng, hiện đối mặt với nhiều thách thức chưa từng có. Khó khăn không chỉ là những vấn đề cố hữu về pháp lý, quy hoạch hay khả năng thanh khoản, mà còn là một bài toán phức tạp hơn, đó là việc xử lý khối tài sản bảo đảm khổng lồ đang “kẹt” trong hệ thống ngân hàng. Đây là gánh nặng không hề nhỏ, đang đè nặng lên cả hệ thống tín dụng và bản thân các doanh nghiệp.
Dư nợ tín dụng kinh doanh bất động sản đã vượt ngưỡng 1,56 triệu tỷ đồng, tăng tới 20% so với cuối năm 2024. Đây không chỉ là một con số khô khan trên bảng cân đối kế toán. Đằng sau nó là những dự án đang đình trệ, những doanh nghiệp đang kiệt sức, những người dân đang lo lắng về tài sản và tương lai. Điều đó phản ánh một bức tranh phức tạp về những rủi ro tiềm ẩn, về sự tắc nghẽn của dòng vốn và về những khó khăn mà không chỉ các tổ chức tín dụng mà cả các nhà phát triển dự án và người mua nhà đang phải đối mặt.
![]() |
| Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập báo Tiền Phong. |
Việc xử lý nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản, do đó không còn là vấn đề kỹ thuật đơn thuần của riêng ngành ngân hàng. Nó đã trở thành một vấn đề đa chiều, liên quan chặt chẽ đến các khía cạnh pháp lý và đòi hỏi sự đồng hành, phối hợp chặt chẽ từ Nhà nước, doanh nghiệp, và cả người dân.
Nếu chúng ta không có một cách tiếp cận thấu đáo, một giải pháp thực sự hài hòa lợi ích của tất cả các bên liên quan, thì những rủi ro sẽ không chỉ dừng lại ở các con số thống kê trên báo cáo tài chính. Hậu quả có thể lớn hơn nhiều, ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin thị trường, đến sự an toàn, ổn định của hệ thống tín dụng quốc gia, và xa hơn là tác động tiêu cực đến sức khỏe tổng thể của nền kinh tế. Khi niềm tin bị xói mòn, mọi nỗ lực phục hồi và tăng trưởng đều trở nên khó khăn hơn gấp bội.
Với vai trò là một cơ quan báo chí, Báo Tiền Phong nhận thấy trách nhiệm phải khởi xướng và tổ chức hội thảo với chủ đề “Xử lý nợ xấu: Đâu là giải pháp hài hòa?” Báo Tiền Phong mong muốn tạo ra một diễn đàn công khai, minh bạch, nơi mà các chuyên gia, nhà quản lý, đại diện doanh nghiệp có thể cùng ngồi lại, cùng nhau đối thoại thẳng thắn, phân tích sâu sắc các vướng mắc, và quan trọng nhất là hiến kế những giải pháp thực tiễn, khả thi.
![]() |
| Ban Tổ chức hội thảo tặng hoa các đại biểu tham dự. |
Hội thảo là một tiếng nói độc lập, khách quan và đầy trách nhiệm, góp phần vào quá trình hoàn thiện chính sách pháp luật, đặc biệt là đóng góp ý kiến có giá trị vào dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi - một dự thảo luật đang được xã hội đặc biệt quan tâm và kỳ vọng sẽ tạo ra hành lang pháp lý vững chắc hơn cho hoạt động tín dụng, đặc biệt là trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu.
Từ hội thảo hôm nay, sẽ có thêm nhiều góc nhìn đa chiều, những đề xuất cụ thể và khả thi, những sáng kiến đột phá để cùng nhau tháo gỡ những nút thắt đang cản trở sự phát triển. Hơn hết, mục tiêu cao nhất của chúng ta là bảo vệ tài sản hợp pháp, quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong nền kinh tế, và trên hết là góp phần phục hồi niềm tin - yếu tố nền tảng và cốt lõi cho sự tăng trưởng bền vững của thị trường bất động sản nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn - Trường Chính sách công và quản lý Fulbright:
Tài sản bảo đảm giúp ngân hàng yên tâm cấp vốn, đồng thời kiểm soát rủi ro. Một cơ chế xử lý tài sản hiệu quả không chỉ bảo vệ tổ chức tín dụng trước nguy cơ nợ xấu mà còn thúc đẩy mở rộng tín dụng và củng cố niềm tin vào hệ thống tài chính. Tuy nhiên, giá trị thực sự của tài sản bảo đảm chỉ phát huy khi có thể được thu giữ và xử lý nhanh chóng, minh bạch, hợp pháp nếu người vay mất khả năng trả nợ. Quyền thu hồi tài sản trở thành công cụ pháp lý cốt lõi, đảm bảo dòng vốn lưu thông và thị trường tín dụng vận hành ổn định.
![]() |
| Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn. |
Các quốc gia xử lý tài sản bảo đảm theo hai truyền thống pháp lý chính: Thông luật (Common Law - như Mỹ, Anh, Singapore) và Dân luật (Civil Law - như Đức, Nhật, Việt Nam).
Trong hệ thống Thông luật, quyền thỏa thuận trong hợp đồng được đề cao. Nếu hợp đồng thế chấp quy định rõ “quyền bán tài sản”, ngân hàng có thể tự thu giữ và bán tài sản mà không cần đưa ra tòa. Cơ chế này rút ngắn thời gian xử lý nợ, giảm chi phí pháp lý và nâng cao hiệu quả thu hồi nợ, trở thành hình mẫu trong quản lý rủi ro tín dụng.
Ngược lại, các quốc gia theo Dân luật như Việt Nam thường yêu cầu việc xử lý tài sản bảo đảm phải thông qua tòa án hoặc cơ quan thi hành án, ngay cả khi hợp đồng có điều khoản rõ ràng về quyền xử lý. Cách tiếp cận này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người vay và bên thứ ba, đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong toàn bộ quá trình. Tuy nhiên, chính quy trình tư pháp phức tạp lại khiến thời gian xử lý kéo dài.
Phần nợ xấu hay còn gọi là “cục máu đông” này kéo dài từ năm này qua tháng khác, gây thiệt hại cho ngân hàng, gây thiệt hại cho người thế chấp. Tài sản bị phong tỏa, bị kê biên, niêm phong, rõ ràng không làm gì được, không sinh lời được…gây lãng phí.
![]() |
| Hội thảo đề cập vấn đề nóng trong xử lý nợ xấu ngân hàng, thu hút sự quan tâm của nhiều người. |
Trong giai đoạn 2017-2023, Nghị quyết 42/2017/QH14 từng mở ra một cơ chế đặc thù, giúp tổ chức tín dụng xử lý tài sản nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, khi nghị quyết hết hiệu lực vào cuối năm 2023, hệ thống pháp lý lập tức rơi vào trạng thái hụt cơ chế xử lý hữu hiệu. Trước yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý hậu Nghị quyết 42.
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn - Trường Chính sách công và quản lý Fulbright:
Điều kiện tiên quyết là hợp đồng thế chấp phải có thỏa thuận rõ ràng về quyền xử lý tài sản mà không cần thông qua tòa án - cơ chế được gọi là “power of sale”. Thỏa thuận này không thể mơ hồ hay chỉ mang tính hình thức, mà phải quy định cụ thể trình tự thông báo, phương thức định giá, thời gian chờ xử lý cũng như các quyền còn lại của người vay sau khi tài sản bị bán.
Trong suốt quá trình xử lý, việc thông báo cho người vay cần được thực hiện minh bạch, bằng văn bản, với thời hạn hợp lý. Điều này không chỉ đảm bảo quyền được biết và chuẩn bị của người vay, mà còn tạo điều kiện để họ có thể chủ động trả nợ, tự tìm đối tác chuyển nhượng tài sản nhằm đạt mức giá tốt hơn, hoặc tái đàm phán với bên cho vay.
![]() |
| Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn. |
Một điểm then chốt khác là việc định giá tài sản phải phản ánh đúng giá trị thị trường, tránh tình trạng tổ chức tín dụng đơn phương bán với giá thấp, gây thiệt hại cho người vay. Để đảm bảo khách quan, nên có sự giám sát của bên thứ ba hoặc cơ chế định giá độc lập trong toàn bộ quá trình này.
Bên cạnh đó, quy trình xử lý tài sản cần được thiết kế một cách công khai, dễ giám sát và có thể kiểm chứng. Trong trường hợp không áp dụng đấu giá công khai, việc chuyển nhượng tài sản nên được thực hiện qua sàn giao dịch hoặc các kênh minh bạch khác. Đồng thời, các thông tin như giá chào bán, hồ sơ người mua và biên bản giao dịch cần được công bố công khai để tránh xung đột lợi ích.
Một nguyên tắc quan trọng không thể bỏ qua là người vay cần được bảo đảm quyền nhận lại phần dư sau khi tài sản bị bán, trừ đi khoản nợ gốc, lãi và các chi phí hợp lý. Đây là quyền tài sản hợp pháp, cần được tổ chức tín dụng thông báo rõ ràng trong mọi trường hợp - kể cả khi không còn giá trị dư - nhằm tránh khiếu nại phát sinh.
![]() |
| Các đại biểu dự hội thảo. |
Cuối cùng, khung pháp lý cũng cần tính đến quyền lợi của các bên thứ ba có liên quan, như người đồng sở hữu, người thuê nhà hợp pháp hoặc người bảo lãnh. Những đối tượng này cần được thông báo và tạo điều kiện thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trước khi tài sản bị xử lý, để toàn bộ quá trình được diễn ra một cách toàn diện, minh bạch và nhân văn hơn.
Cần luật hóa những cái gì thành công từ Nghị quyết 42 để đảm bảo quyền thu giữ tài sản hợp pháp của ngân hàng và cũng đảm bảo quyền tài sản của bên đi vay cũng phải được bảo vệ. Cuối cùng, phải cân bằng quan điểm khi hoàn thiện Luật các tổ chức tín dụng phải cân bằng giữa quyền thu giữ tài sản của ngân hàng và quyền tài sản của bên đi vay. Khả năng cân bằng này phải dựa trên các nguyên lý gồm: tăng độ bao phủ rủi ro cho ngân hàng, giảm chi phí sử dụng vốn cho người đi vay, cải thiện được khả năng tiếp cận tín dụng cho nền kinh tế.
Luật sư Lê Trung Phát - Giám đốc hãng luật Lê Trung Phát, đoàn luật sư TPHCM:
Nợ xấu ngân hàng không chỉ là điều mà người vay lo ngại mà nó còn là mối nguy hiểm đối với an toàn hoạt động ngân hàng. Bởi vậy, pháp luật ngân hàng đã có quy định rất chặt chẽ về việc phân loại nợ xấu và xử lý nợ xấu.
Căn cứ pháp lý về quyền sở hữu, quyền tài sản, điều 32 quy định mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
![]() |
| Luật sư Lê Trung Phát. |
Bộ luật Dân sự năm 2015 tại chương 7 về tài sản được quy định tại 10 điều luật được xây dựng để xác định về tài sản. Sự thể chế hóa này, tưởng như đơn giản, nhưng không hề đơn giản, bởi nó liên quan đến quy định về quyền sở hữu, thuộc tính của quyền sở hữu, căn cứ xác lập và các quyền có liên quan, kể cả bên thứ 3 có liên quan.
Cụ thể, chủ sở hữu tài sản, họ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khi họ dùng quyền sở hữu tài sản của mình đi thế chấp cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng, lúc đó nó chưa phải là căn cứ chuyển giao quyền sở hữu.
Về căn cứ pháp lý cho việc xử lý nợ xấu, theo thông tư 11/2021NHNN thì phân loại nợ có 5 nhóm theo từng tiêu chí khác nhau. Theo đó, ít nhất mỗi tháng một lần, trong 7 (bảy) ngày đầu tiên của tháng, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 1, Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13 Thông tư này tự thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày cuối cùng của tháng trước liền kề, trích lập dự phòng rủi ro theo kết quả tự phân loại nợ, cam kết ngoại bảng và gửi kết quả tự phân loại nợ, cam kết ngoại bảng cho CIC.
![]() |
| Quang cảnh hội thảo. |
Ngoài ra, xử lý nợ xấu được quy định tại Điều 12 về mức trích lập dự phòng đối với tài sản đảm bảo. Áp lực xử lý nợ xấu đối với ngân hàng rất lớn vì hạn chế kinh doanh cho phía ngân hàng vào năm tiếp theo. Bản thân ngân hàng cũng mong muốn xử lý nợ xấu để mang lợi nhuận. Tài sản thế chấp chỉ là nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn.
Luật sư Lê Trung Phát - Giám đốc hãng luật Lê Trung Phát, đoàn luật sư TPHCM:
Việc xử lý tài sản nhằm đảm bảo cho việc thu hồi nợ, nhìn tưởng rất đơn giản nhưng quả thật có rất nhiều vấn đề đặt ra, bởi nó là vấn đề về luật pháp mà khi gặp phải thì không thể không thực hiện.
Thoạt đầu, nhìn các ngân hàng cho vay và nhận thế chấp bằng bất động sản, cứ ngỡ là đơn giản và không mấy rủi ro, nhưng thực tế cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro mà để lấy lại được quyền lợi chính đáng của mình. Chính các ngân hàng cũng phải tốn nhiều thời gian, công sức nếu gặp phải các khách hàng không thiện chí khi bản thân họ không trả được nợ, bàn giao tài sản.
![]() |
| Luật sư Lê Trung Phát cho rằng việc xử lý tài sản nhằm đảm bảo cho việc thu hồi nợ tưởng rất đơn giản nhưng có rất nhiều vấn đề đặt ra. |
Nhiều trường hợp, ngân hàng cầm được bản án, quyết định thi hành án, chờ việc bán đấu giá tài sản để thu hồi tiền nữa là xong nhưng đến lúc đó vẫn chưa xong vì lại phát sinh các tranh chấp. Đơn cử trường hợp người dân thế chấp căn nhà cho ngân hàng nhưng sau đó cho người khác thuê ở hoặc trồng cây hoa màu thì phát sinh quyền lợi của bên thứ 3. Do đó, khi xử lý nợ xấu thì phải đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ hài hòa cho các bên liên quan.
Để xử lý nợ xấu, cần đảm bảo quyền tài sản của người thế chấp, xây dựng quyền lợi bên nhận thế chấp tài sản và sự minh bạch hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng tín dụng. Chúng ta không xây dựng hợp đồng như xây dựng bộ luật mà phải phân loại rõ quyền, nghĩa vụ của các bên. Khi thực hiện hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng tín dụng và phía ngân hàng phải thông báo rõ với khách hàng rằng khi không trả nợ đúng hạn thì sẽ thu hồi tài sản để tránh các phát sinh về sau khi xảy ra tranh chấp.
Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA):
Tình trạng nợ xấu bất động sản đang ngày càng phức tạp, ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của thị trường tài chính và sức khỏe doanh nghiệp. Nếu không có giải pháp tổng thể và mang tính đột phá, hàng loạt dự án dở dang sẽ tiếp tục “đắp chiếu”, kéo theo hệ lụy dây chuyền đến ngân hàng, nhà đầu tư và người lao động.
Xử lý nợ xấu không chỉ là thu hồi nợ mà còn là "cơ hội để phục hồi thị trường". Chính phủ cần xem xét ban hành cơ chế đặc thù nhằm xử lý nợ xấu một cách quyết liệt, đồng bộ. Chúng ta cần cách tiếp cận mới: Thu hồi được nợ, khôi phục được dự án, cứu được doanh nghiệp và giữ được việc làm cho người lao động.
![]() |
| Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch HoREA. |
Một trong những vướng mắc lớn hiện nay là pháp lý đối với tài sản đảm bảo. Nhiều dự án có giá trị lớn đang bị kẹt trong vòng xoáy thủ tục, tranh chấp pháp lý, khiến ngân hàng không thể phát mãi, doanh nghiệp không thể tái cấu trúc. Vì vậy, cần hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc xử lý tài sản đảm bảo theo hướng minh bạch, rút ngắn quy trình phát mãi, kể cả thông qua đấu giá công khai hoặc chuyển nhượng dự án.
Chúng tôi đề xuất thành lập tổ công tác liên ngành cấp trung ương để rà soát, phân loại các dự án bất động sản đang bị ngưng trệ, từ đó có chính sách xử lý phù hợp từng nhóm nợ xấu, không nên dùng một cơ chế cứng nhắc cho tất cả.
Cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp có dự án khả thi được tiếp cận nguồn vốn tín dụng với điều kiện linh hoạt hơn, qua đó phục hồi năng lực tài chính và hoàn thiện dự án, tạo dòng tiền thực để trả nợ.
Khi nợ xấu được xử lý, dòng tiền mới sẽ quay lại thị trường, doanh nghiệp sống lại, ngân hàng lành mạnh, và Nhà nước thu được thuế. Đây là bài toán cần lời giải tổng thể, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chứ không thể chỉ trông chờ doanh nghiệp tự bơi trong khủng hoảng.
Ông Võ Hồng Thắng - Phó Tổng Giám đốc DKRA Group:
Việc thu giữ tài sản đảm bảo không phải lúc nào cũng là giải pháp tối ưu. Trong bối cảnh thị trường còn nhiều bất ổn, điều này có thể trở thành gánh nặng cho ngân hàng nếu không đi kèm các giải pháp xử lý hiệu quả. Việc phối hợp giữa ngân hàng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý để tháo gỡ vướng mắc, minh bạch hóa quy trình và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản sẽ là chìa khóa để giải quyết bài toán nợ xấu một cách bền vững.
![]() |
| Ông Võ Hồng Thắng - Phó Tổng GĐ DKRA Group. |
Tính đến tháng 5, dư nợ tín dụng bất động sản tại Việt Nam đạt hơn 1,56 triệu tỷ đồng - tăng khoảng 260.000 tỷ đồng so với cuối năm 2024, tương ứng mức tăng 20%. Nếu tín dụng toàn hệ thống tăng trưởng đúng mục tiêu 16% trong năm, tổng dư nợ bất động sản có thể đạt 3,8-3,9 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, tín dụng vẫn chủ yếu chảy vào doanh nghiệp bất động sản, trong khi người dân chưa mặn mà vay mua nhà do giá cao.
Đáng lưu ý, tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản đang tăng nhanh. Thống kê cho thấy tổng nợ xấu của 27 ngân hàng niêm yết đã vượt 265.000 tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ. Trong khi Vietcombank, Techcombank, VietABank vẫn duy trì tỷ lệ nợ xấu thấp dưới 1,2%, một số ngân hàng như OCB đã ghi nhận mức 3,9%, khiến rủi ro hệ thống ngày càng rõ rệt.
Các doanh nghiệp địa ốc đang gặp tình cảnh “nửa mừng, nửa lo”. Về thuận lợi, lãi suất vay đã giảm hơn 2% so với cuối 2023, giúp chi phí vốn thấp hơn. Cùng với đó là sự ra đời của gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho nhà ở xã hội và các chính sách hỗ trợ tín dụng từ Ngân hàng Nhà nước.
![]() |
| Các đại biểu tương tác, thảo luận. |
Tuy nhiên, không ít khó khăn vẫn đè nặng lên vai doanh nghiệp. Điều kiện vay vốn ngày càng khắt khe, đặc biệt trong bối cảnh báo cáo tài chính của nhiều công ty bộc lộ sự suy yếu. Ngân hàng ngày càng thận trọng vì lo ngại rủi ro nợ xấu, trong khi thủ tục vay vốn vẫn rườm rà, kéo dài. Thêm vào đó, nhiều ngân hàng chỉ chấp nhận tài sản đảm bảo là bất động sản, chưa linh hoạt với các tài sản khác như cổ phiếu hay quyền tài sản.
Để cải thiện khả năng tiếp cận vốn, doanh nghiệp cần minh bạch hóa báo cáo tài chính, tăng cường kiểm toán độc lập, và áp dụng công nghệ trong chấm điểm tín dụng. Đồng thời, các kênh huy động vốn thay thế như phát hành trái phiếu, hợp tác với quỹ đầu tư, tín dụng xanh cần được khuyến khích và mở rộng.
Ông Võ Hồng Thắng - Phó Tổng Giám đốc DKRA Group:
Trước sức ép đáo hạn trái phiếu và khoản vay ngân hàng, nhiều doanh nghiệp bất động sản đã chủ động đàm phán tái cơ cấu nợ. Tính đến tháng 5, hơn 178.000 tỷ đồng trái phiếu đã được gia hạn, giúp giảm bớt áp lực tài chính. Một số doanh nghiệp cũng đã quay lại thị trường trái phiếu, phát hành tổng cộng 10.000 tỷ đồng trong tháng 4.
Ngoài ra, việc bán tài sản để trả nợ, giảm lãi suất trái phiếu và thương lượng với ngân hàng để tái cơ cấu khoản vay đang là các biện pháp được áp dụng rộng rãi.
Tuy nhiên, việc ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo lại đặt ra bài toán khác. Không ít trường hợp tài sản bị thu giữ là dự án bất động sản dở dang, pháp lý chưa hoàn chỉnh, khiến ngân hàng không thể bán đấu giá hay tái phát triển. Chi phí duy tu, bảo quản tăng cao, trong khi tài sản nằm “đắp chiếu”, gây lãng phí và rủi ro tài chính.
![]() |
| Ông Võ Hồng Thắng - Phó Tổng Giám đốc DKRA Group. |
Tình trạng “đứt gánh” dòng vốn vẫn đang là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hàng loạt dự án bất động sản ngừng trệ và tỷ lệ nợ xấu gia tăng. Để khắc phục, ông Thắng cho rằng cần cải thiện chính sách tín dụng, đảm bảo tính nhất quán trong điều kiện vay và quá trình giải ngân.
Doanh nghiệp cũng cần chuẩn bị hồ sơ tài chính minh bạch từ đầu, công khai kế hoạch dòng tiền, đồng thời chủ động đàm phán linh hoạt với ngân hàng để tránh thay đổi bất ngờ trong quá trình vay vốn. Đặc biệt, việc đa dạng hóa nguồn vốn, phát hành trái phiếu hoặc tìm đến các quỹ đầu tư, tổ chức tài chính phi ngân hàng là hướng đi tất yếu.
Ở các nước phát triển như Mỹ, Đức hay Anh, quy trình thu giữ tài sản được thực hiện công khai, minh bạch và có sự giám sát độc lập nhằm đảm bảo công bằng giữa các bên. Tại Việt Nam, quyền thu giữ tài sản của ngân hàng từng được quy định trong Nghị quyết 42, và nay đã được luật hóa nhưng vẫn cần điều chỉnh thêm để phù hợp thực tiễn.
- Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập báo Tiền Phong:
Trong giai đoạn thí điểm theo Nghị quyết 42 từ năm 2017 - 2022, các tổ chức tín dụng đã được trao quyền thu giữ tài sản đảm bảo để xứ lý nợ xấu. Tuy nhiên, giai đoạn này, nợ xấu không những không giảm mà còn tiếp tục gia tăng. Ngân hàng Nhà nước lý giải nguyên nhân chính là do tác động của đại dịch COVID-19. Nay nếu luật hóa nội dung này, liệu có thực sự xử lý được tận gốc nợ xấu, hay chỉ là giải pháp tình thế “trị ngọn mà không trị gốc”? Liệu chúng ta có đang bỏ qua nguyên nhân nội tại từ chính quy trình thẩm định, cho vay, quản trị rủi ro của các ngân hàng?
![]() |
| Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập báo Tiền Phong - đặt câu hỏi thảo luận với các diễn giả. |
- Ông Nguyễn Thanh Quang - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Agriland:
Rất cảm ơn Báo Tiền Phong đã tổ chức một sự kiện hết sức ý nghĩa. Sắp tới, khi nhắc tới nợ xấu, chắc chắn sự kiện hôm nay sẽ nhận được sự quan tâm nhiều nhất, bởi nhà nhà người người ai cũng có thể dính tới nợ xấu.
Về khó khăn và rào cản của việc xử lý nợ xấu, chúng ta phải thấy chữ nợ xấu đã ăn sâu vào xã hội theo cách nghĩ tiêu cực. Ngay sau khi Quốc hội bãi bỏ lĩnh vực thu hồi nợ, người dân đã có sự hiểu lầm, không phân biệt được nợ xấu cá nhân và nợ xấu ngân hàng. Nếu bàn đến nợ xấu trong các giao dịch dân sự thì đếm không xuể. Do chữ nợ xấu chưa được làm rõ nên người tham gia, ngân hàng hay đơn vị thứ 3 xử lý nợ xấu cũng chịu những tai tiếng.
![]() |
| Ông Nguyễn Thanh Quang - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Agriland. |
Đơn vị chúng tôi bắt đầu vào lĩnh vực năm 2012, cùng lúc với Công ty quản lý tài sản VAMC - công cụ đặc biệt của Nhà nước nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu được thành lập. Đến năm 2017, kết thúc 5 năm đầu tiên, ban trái phiếu của VAMC được quyền mua nợ xấu của công ty Nhà nước. Sau đó, thành lập ban thị trường, cho phép VAMC có lượng vốn đi mua nợ xấu của doanh nghiệp không phải vốn Nhà nước. Từ đó, chúng tôi và VAMC cũng khắt khe trong công việc.
Khi chúng tôi đề cập sàn giao dịch nợ xấu cách đây khoảng hơn 5 năm gặp nhiều khó khăn. Bản chất, ai cũng muốn giấu, các chủ thể tham gia vào thị trưởng xử lý nợ xấu là con nợ và chủ nợ không gặp nhau. Khó khăn chồng chất khó khăn.
- Luật sư Lê Trung Phát:
Về nguồn gốc nợ xấu, nhìn nhận cần phải thay đổi tên gọi vì bản thân Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng có phương pháp tính để làm sao kiểm soát rủi ro.
![]() |
| Luật sư Lê Trung Phát. |
Về phía ngân hàng, nợ thì phải thu, phải trả và phải có lợi nhuận. Chúng ta đang nhìn thấy bức tranh mất cân đối, người đi cho vay có lời mặc dù đang giữ tài sản của bên đi vay và ôm luôn nợ xấu. Trong khi đó, doanh nghiệp đi vay thì “chết ngắt” vì không có tiền trả và bị xử lý tài sản.
Ngân hàng phải đảm bảo an ninh về tiền tệ, đẩy rủi ro về phía mình thấp nhất nên chúng ta phải thay đổi tên gọi, xây dựng lại cách tính để hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Đề nghị điều chỉnh lợi nhuận, thêm thời gian như quy định trước đây là 365 ngày để các bên có thể ngồi đàm phán với nhau, tìm cách tháo gỡ.
- Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập báo Tiền Phong:
Hiện nay, Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi, trong đó có một số điểm mới về xử lý nợ xấu. Theo quan điểm của các ông, nếu điều này được thông qua sẽ tác động như thế nào tới khả năng khơi thông nguồn vốn doanh nghiệp? Doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đang gặp khó khăn sẽ được hưởng lợi gì từ Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi này?
![]() |
| Tổng Biên tập Báo Tiền Phong trao đổi về Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi, trong đó có một số điểm mới về xử lý nợ xấu. |
- Chuyên gia kinh tế Đỗ Thiên Anh Tuấn - Trường Chính sách công và quản lý Fulbright:
Ngân hàng cho vay thì phải chấp nhận tỷ lệ mức độ rủi ro nhất định, nhưng phải tối thiểu hóa rủi ro. Bên đi vay và bên cho vay có thông tin không cân xứng. Hệ quả của nó tạo ra 2 vấn đề: rủi ro đạo đức và lựa chọn ngược.
Ngân hàng đang rơi vào tình huống “lựa chọn ngược” - tức lựa chọn người có rủi ro để cho vay. Để giảm rủi ro nợ xấu, thứ nhất ngân hàng cần sàng lọc rủi ro. Vai trò của Nhà nước là giảm bất cân xứng thông tin, yêu cầu minh bạch hóa, cung cấp thông tin, thẩm định cho ngân hàng.
Thứ hai, cần gắn với tinh thần của Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Doanh nghiệp không thể quản lý biến động vĩ mô, như vậy vai trò của Nhà nước là phải ổn định vĩ mô, tạo môi trường kinh doanh an toàn, bền vững, ổn định cho doanh nghiệp.
![]() |
| Chuyên gia kinh tế Đỗ Thiên Anh Tuấn. |
Nhà nước làm sao phải có được những công cụ, chính sách tài khóa, tiền tệ thế nào, pháp lý thế nào để tháo gỡ những khó khăn để thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi trong đầu tư, kinh doanh phát triển kinh tế thì họ làm ăn kinh doanh có điều kiện trả nợ cho ngân hàng. Tinh thần của Nghị quyết 68 là làm sao để hỗ trợ khó khăn cho doanh nghiệp. Nền kinh tế càng vươn ra hội nhập, càng phát triển thì Nhà nước phải là “bà đỡ” cho kinh tế tư nhân, cho doanh nghiệp.
Có những rủi ro đến từ thị trường, Nhà nước phải tối thiểu hóa rủi ro đó cho doanh nghiệp, từ đó khả năng phá sản, thất bại để ngân hàng cưỡng chế, thu nợ thấp đi. Với thay đổi trong tư duy từ Nghị quyết 68, chuyển từ một Nhà nước quản lý sang kiến tạo, đồng hành phục vụ người dân, phục vụ doanh nghiệp.
Như vậy, doanh nghiệp được đồng hành là khó khăn của doanh nghiệp ngay lập tức được chính quyền “xắn tay áo” để xử lý như là việc của mình. Một số địa phương có những thông điệp mạnh mẽ: “Khó khăn của doanh nghiệp chính là khó khăn của chính quyền”.
- Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập Báo Tiền Phong: Liệu việc luật hóa Nghị quyết 42 có thể giải quyết triệt để bài toán nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản?
![]() |
| Các đại biểu thảo luận sôi nổi về giải pháp xử lý nợ xấu. |
- Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch HoREA:
Nếu chỉ chuyển Nghị quyết thành luật mà không bổ sung các điều kiện thực thi cần thiết, thì hiệu quả sẽ rất hạn chế. Gốc rễ của vấn đề nợ xấu hiện nay nằm ở hai nút thắt lớn: ách tắc pháp lý và rủi ro thị trường.
Khoảng 70% khó khăn trên thị trường bất động sản đến từ vướng mắc pháp lý. Hàng loạt dự án bị đình trệ, không thể chuyển nhượng, phát mãi, gây tắc dòng tiền và gián tiếp đẩy doanh nghiệp vào thế mất khả năng trả nợ. Rủi ro thị trường - như đại dịch COVID-19, xung đột địa chính trị - khiến tổng cầu giảm sâu, càng khiến dòng tiền bị đóng băng. Dòng tiền là yếu tố sống còn của doanh nghiệp và ngân hàng. Không tạo điều kiện cho tài sản luân chuyển thì nền kinh tế không thể phát triển.
![]() |
| Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch HoREA. |
Một điểm tích cực là Nghị định 08/2023 về trái phiếu doanh nghiệp, với việc lần đầu Nhà nước đứng ra làm trung gian, cho phép giãn nợ tối đa hai năm. Tuy nhiên, áp lực đáo hạn sẽ rất lớn từ tháng 8/2025 khi khoảng 200.000 tỷ đồng trái phiếu đến hạn, nếu không có giải pháp hỗ trợ kịp thời.
Về mặt pháp lý, việc luật hóa Nghị quyết 42 là cần thiết, nhưng phải đi kèm với các điều kiện cụ thể như bảo đảm quyền thu giữ tài sản bảo đảm nhưng vẫn bảo vệ người thế chấp ngay tình, ngăn ngừa tình trạng "zombie tài chính" trục lợi. Cần bổ sung khái niệm “người hưởng lợi cuối cùng” vào luật tổ chức tín dụng - một lỗ hổng pháp lý bộc lộ rõ qua các đại án gần đây.
Về phân loại nợ xấu, cần hiệu chỉnh lại hệ thống phân nhóm hiện hành. Không nên mặc định nợ nhóm 4 nghiêm trọng hơn nhóm 3, hay nhẹ hơn nhóm 5. Phải rà soát lại để phản ánh đúng thực tế. Nợ nhóm 5 - mất khả năng thu hồi - mới là “cục máu đông” cần ưu tiên xử lý, trong khi các nhóm 1, 2, 3 nên được hỗ trợ để phục hồi, tránh trượt sâu.
![]() |
| Rất đông đại biểu chăm chú theo dõi hội thảo dù đã 12h30 trưa. |
Ngoài ra, cần luật hóa rõ ràng quyền và nghĩa vụ các bên trong giao dịch tài sản bảo đảm, cho phép chuyển nhượng tài sản trên sàn giao dịch nhưng vẫn đảm bảo nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. Đồng thời, hoàn thiện pháp luật theo hướng công bằng, minh bạch, chấm dứt tình trạng “sân sau”, “sở hữu chéo” trong hệ thống ngân hàng - doanh nghiệp.
Không nên ảo tưởng nợ xấu có thể về 0%. Trong nền kinh tế thị trường, nợ xấu là hệ quả tất yếu. Vấn đề là phải kiểm soát ở mức chấp nhận được, với Việt Nam là khoảng 3%. Chỉ khi pháp luật minh bạch, đồng bộ, tạo điều kiện lưu chuyển tài sản, khơi thông dòng tiền, thì mới có thể xử lý tận gốc nợ xấu.
- Đại diện một doanh nghiệp đặt vấn đề:
Doanh nghiệp đang ở vị thế bất cân xứng về thông tin và hoàn toàn yếu thế trong quá trình làm việc với ngân hàng. Bắt đầu từ bước đầu tiên là cung cấp hồ sơ tài sản đảm bảo và tiến hành thẩm định giá thì quá trình này hầu như là ngân hàng thực hiện hoặc là bên có quyền can thiệp nhiều nhất.
Đến bước thứ hai, sau khi đã thẩm định được các phương án cho vay và bắt đầu ký hợp đồng tín dụng thì cái hợp đồng tín dụng cũng do ngân hàng soạn. Chúng ta có một điều khoản để bảo vệ người đi vay là ngân hàng được quyền xử lý tài sản thế chấp khi nhận được sự đồng ý của chủ tài sản. Nhưng trong thực tế, hợp đồng bao giờ cũng kèm với thỏa thuận ủy quyền, cho phép ngân hàng được quyền xử lý tài sản trong trường hợp nợ thành nợ xấu. Điều đó nghĩa, ngay từ lúc người đi vay chấp nhận ký hợp đồng là đã phải chấp nhận từ bỏ các quyền bảo vệ mình thì mới được vay.
Điều thứ ba, ngân hàng có quyền kiểm soát cái việc giải ngân. Việc ngân hàng dừng giải ngân, đứt gãy dòng tiền đột ngột sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của dự án, doanh nghiệp. Trong đó có nhiều nguyên nhân khách quan, ngoài tầm với của doanh nghiệp. Vì vậy, nợ xấu cũng phát sinh từ đó. Nếu đây là một mối quan hệ bình đẳng thì doanh nghiệp có quyền kiện ngân hàng để bồi thường nhưng từ trước đến nay chưa từng có doanh nghiệp nào dám kiện ngân hàng về vấn đề này.
Cuối cùng, trong trường hợp xấu nhất là xảy ra nợ xấu và phải xử lý tài sản đảm bảo thì ngân hàng là người quyết định về giá bán, thời điểm bán vì ngay từ lúc đầu, khi ký hợp đồng, người đi vay đã uỷ quyền hết cho ngân hàng rồi. Trong quá trình này, nảy sinh nhiều vấn đề bất lợi cho người đi vay về giá bán không phản ánh đúng giá trị thị trường.
![]() |
| Cuộc hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp. |
Trong giai đoạn áp dụng thí điểm Nghị quyết 42 cho phép ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo để giải quyết nợ xấu thì giai đoạn đó nợ xấu vẫn tăng và Ngân hàng Nhà nước có lý giải là do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 19. Điều đó có nghĩa là nợ xấu tăng đang do một vấn đề khách quan. Cả doanh nghiệp và ngân hàng đều đang hoạt động bình đẳng trong một nền kinh tế tư nhân theo tinh thần của Nghị quyết 68. Thế thì tại sao rủi ro khách quan như trên lại đẩy hết về phía doanh nghiệp? Trong khi đó, doanh nghiệp là bên yếu thế trong mối quan hệ này. Theo tôi, bảo vệ bên yếu thế là đừng tăng thêm quyền cho kẻ mạnh.
Các chuyên gia đã phân tích và cho thấy việc trao quyền cho ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo là một giải pháp tình thế, nó không giải quyết tận gốc vấn đề nợ xấu. Đa số nguyên nhân gây ra nợ xấu không phải vì doanh nghiệp chây ì không chịu trả nợ mà vì những điều kiện khách quan ảnh hưởng xấu đến sản xuất, kinh doanh. Vậy tại sao chúng ta phải luật hóa, tức đưa một biện pháp ngắn hạn để giải quyết một vấn đề dài hạn? Việc trao quyền cho ngân hàng, liệu có thể dẫn đến góc độ rủi ro đạo đức, khiến các ngân hàng lỏng lẻo hơn trong khâu thẩm định cho vay hay không. Bởi vì, kiểu nào đi nữa, họ cũng sẽ thu được nợ. Họ sẽ phải cho vay với một mức độ rủi ro cao hơn và dẫn đến yếu tố là nợ xấu lại tăng hơn.
Do đó, cơ quan nhà nước có giải pháp nào để đứng về góc độ doanh nghiệp - những người đi vay để sản xuất, kinh doanh, làm giàu chính đáng theo tinh thần của Nghị quyết 68 nhưng hiện đang hoàn toàn yếu thế trong các quan hệ tính dụng như hiện nay.
- Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch HoREA:
Luật hóa Nghị quyết 42 là bước đi đúng hướng, song cần thực hiện đồng bộ, toàn diện nhằm tháo gỡ nút thắt pháp lý và khơi thông dòng tiền trên thị trường.
![]() |
| Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch HoREA. |
Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành từ năm 2017, có hiệu lực trong vòng 5 năm. Đến cuối năm 2022, Nghị quyết được gia hạn thêm một năm và chính thức hết hiệu lực từ cuối năm 2023. Sau thời điểm này, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết 42 không được phép gia hạn thêm vì đã hết tính chất thí điểm. Quốc hội do đó đã chỉ đạo phải luật hóa nội dung của Nghị quyết này để xử lý căn cơ, dài hạn vấn đề nợ xấu.
Tuy nhiên, quá trình luật hóa hiện nay vẫn chưa đầy đủ. Nếu chỉ luật hóa trong Luật các tổ chức tín dụng là chưa đủ, phải tiếp tục luật hóa trong cả Luật Kinh doanh bất động sản, vì gốc rễ của xử lý nợ xấu - đặc biệt là các khoản nợ có tài sản đảm bảo là bất động sản - chính là khơi thông dòng tiền, tạo điều kiện luân chuyển hàng hóa trên thị trường.
Nợ xấu không phải là hiện tượng tạm thời hay ngắn hạn, mà là một phần tất yếu của nền kinh tế thị trường. Do đó, cần khuôn khổ pháp luật ổn định, minh bạch để kiểm soát và xử lý nợ xấu ở mức cho phép - khoảng 3% như mục tiêu hiện nay của Việt Nam.
Một điểm vướng lớn là cơ chế thu giữ tài sản bảo đảm. Trong nhiều trường hợp, bên vay vốn bị buộc phải ký cam kết chấp thuận cho tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản ngay từ đầu, khi chưa có điều kiện thương lượng công bằng. Do đó, nếu quy định trong dự thảo luật rằng “chỉ được thu giữ khi có thỏa thuận” thì cần làm rõ thỏa thuận đó được xác lập trong điều kiện nào, để tránh hình thức hóa quy định.
![]() |
| Các chuyên gia cho rằng, xử lý nợ xấu nếu chỉ luật hóa trong Luật các tổ chức tín dụng là chưa đủ, phải tiếp tục luật hóa trong cả Luật Kinh doanh bất động sản. |
Về sức ép trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn, với hơn 200.000 tỷ đồng đến hạn vào từ tháng 8 năm nay - “điểm rơi” cần có giải pháp ứng phó sớm. Nghị định 08 trong việc tạm thời tháo gỡ là tích cực, nhưng giải pháp căn cơ vẫn là hoàn thiện thể chế pháp lý đồng bộ, giúp thị trường vận hành thông suốt.
Từ góc độ cấu trúc hệ thống tín dụng, có một nghịch lý: Quy mô nền kinh tế Việt Nam khoảng 400 tỷ USD, nhỏ hơn nhiều so với Trung Quốc - nền kinh tế hơn 18.000 tỷ USD - nhưng số lượng tổ chức tín dụng lại cao gấp nhiều lần. Trung Quốc chỉ có khoảng 5 ngân hàng trung ương và thương mại lớn, trong khi Việt Nam có đến 37 tổ chức tín dụng. Việc chậm cơ cấu lại hệ thống tín dụng theo
Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” được đưa ra là một trong những nguyên nhân khiến cho các “ông chủ giấu mặt” - người hưởng lợi cuối cùng trong doanh nghiệp, ngân hàng - dễ lợi dụng cấu trúc chồng chéo để thao túng và trục lợi.
Xử lý nợ xấu là chuyện của thị trường, nhưng thị trường chỉ có thể vận hành khi thể chế rõ ràng, dòng tiền được luân chuyển. Nếu không khơi thông được dòng tiền, thì dù có luật hóa cũng không tạo được chuyển biến thực chất.
Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập Báo Tiền Phong:
Vấn đề nợ xấu là thuộc tính của nền kinh tế, của bất kể nền kinh tế nào. Vấn đề là chúng ta kiểm soát nó như thế nào để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
![]() |
| Ông Phùng Công Sưởng - Tổng Biên tập Báo Tiền Phong. |
Thông qua trao đổi của các chuyên gia trong hội thảo, những vấn đề đã được mổ xẻ đa chiều. Đây đều là những thông tin gắn chặt với cuộc sống, được đúc kết từ thực tế. Qua các ý kiến, tất cả chuyên gia đều đồng tình nợ xấu tồn tại khách quan ngoài mong muốn của chúng ta.
Hiện Đảng và Nhà nước có nhiều giải pháp để phát triển doanh nghiệp, chúng ta có quyền tin vào tương lai tươi sáng. Với góc độ của Báo Tiền Phong, chúng tôi cam kết luôn đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp, cùng với sự phát triển của đất nước.























