Vị sứ thần nước Việt nào có câu đối treo ở cổng Thiên An Môn?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Theo sách Sứ thần nước Việt, Nhữ Trọng Thai là vị sứ thần người Việt duy nhất từng đề một vế đối chuẩn mực, được vua quan nhà Thanh hết sức nể phục, ra lệnh treo ở cổng Thiên An Môn (Tử Cấm Thành, Bắc Kinh), mang tính chất bố cáo cho thiên hạ cùng biết.
Nhữ Trọng Thai xuất thân trong gia đình nào?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Nhữ Trọng Thai xuất thân trong gia đình khoa bảng có tiếng ở huyện Đường An, ông nội là Nhữ Tiến Dụng đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Giáp Thìn (1664), chú ruột là Nhữ Đình Hiền (còn có tên khác là Nhữ Tiến Hiền) đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Canh Thân (1680), em họ là Nhữ Đình Toản (con trai của Nhữ Đình Hiền) đỗ tiến sĩ khoa thi năm Bính Thìn (1736)…
Nhữ Trọng Thai từng thi đỗ bảng nhãn khoa thi năm nào?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Tương truyền rằng vào khoa thi Tân Hợi (1771), Nhữ Trọng Thai về kinh ứng thí. Theo thông lệ, trước kỳ thi các sĩ tử thường rủ nhau đến Chân Vũ quán ngủ đêm tại đó để cầu mộng. Đêm ấy, thần báo mộng cho Nhữ Trọng Thai biết ông sẽ đỗ Trạng nguyên. Khi tỉnh dậy, nghĩ tới giấc mộng mà vui mừng, ông nói với đầy tớ: “ Sau khi đỗ Trạng, ta sẽ cưới con gái nhà quyền quý kia và lấy thêm đất của hàng xóm để xây dinh thự cho rộng rãi”. Người đầy tớ mới hỏi: “Cô gái nhà quyền quý kia liệu có chấp nhận để ông lấy về làm vợ lẽ hay không? Còn bà nhà ông sẽ phải giải thích thế nào?” Nhữ Trọng Thai đáp: “Bà nhà là người phụ nữ quê mùa, thô tục. Ta thấy không cần phải bàn tới làm gì”. Người đầy tớ lại hỏi: “Vậy còn đất đai của hàng xóm, làm sao ông có thể lấy của họ được?” Nhữ Trọng Thai trả lời luôn: “ Khi đã đỗ Trạng nguyên rồi, ta muốn gì mà chẳng được!?” Người đầy tớ cho lời ấy là không phải, nhưng biết không khuyên can được nên cũng im lặng. Khoa thi năm ấy, chẳng những không đỗ Trạng nguyên mà Nhữ Trọng Thai còn không đỗ đạt gì cả. Ông buồn bã trở về và nhận ra rằng, trong lòng mình chứa đầy những điều thất đức, lời nói của mình vô lễ, ngạo mạn nên chắc trời giận, dẫu đã có sự sắp đặt người đỗ trong khoa thi ấy nhưng vì người được chọn không có đức nên trời mới đổi ý. Sách Đăng khoa lục sưu giảng cho biết rõ hơn về câu chuyện này như sau: “…Thế rồi quả nhiên ông trượt khoa đó, ông ngờ là Thần báo mộng một cách huyền ảo. Khi về đến nhà, đêm hôm ấy lại thấy mộng Thần bảo rằng: “Thượng đế đã cho khoa này đỗ Trạng rồi, nhưng Trạng nguyên không có đức không nhớ câu chuyện dọc đường hay sao? Thượng đế phạt nghỉ một khoa và giáng xuống thứ nhì.” Khi thức dậy, lấy làm hối lắm, mới tin mộng khi trước là thực chứ không phải huyền ảo. Khoa sau chỉ đỗ Bảng nhãn”. Tới khoa thi năm Qúy Sửu (1733) Nhữ Trọng Thai rất nỗ lực phấn đấu, trước hôm thi ông lại đi cầu mộng, lần này nhiều sĩ tử được thần báo rằng bảng Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) chỉ có duy nhất một người và người đó tên là Thái Công. Bấy giờ ai cũng cho rằng thần báo mộng sai vì khoa thi năm ấy không có ai tên là Thái Công cả, nhưng Nhữ Trọng Thai liền nói rằng đó là điềm ứng vào bản thân ông: “Thái Công là tôi chứ ai nữa, khi nói lái sẽ thành Cống Thai, tôi là cống sĩ có tên là Thai. Thái Công là Cống Thai, đích thị là tôi rồi!” Qủa nhiên khoa đó triều đình chỉ lấy đỗ một Bảng nhãn là Nhữ Trọng Thai, không lấy Trạng nguyên hay Thám hoa và lấy đỗ 17 tiến sĩ. Tuy đỗ cao nhưng Nhữ Trọng Thai cho rằng vì lần trước mình có điều trái đạo nên trời phạt bắt thi hỏng một khoa và khi đỗ cũng bị hạ một bậc.
Vế đối treo ở cổng Thiên An Môn được làm nhân dịp mừng thọ vua Càn Long năm bao nhiêu tuổi?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Theo sách Nhà Tây Sơn, sau chiến thắng Kỷ Dậu (1789), để củng cố ngoại giao giữa Đại Việt và nhà Thanh, vua Quang Trung cử đoàn sứ bộ 150 người sang mừng thọ 80 tuổi, 55 năm ở ngôi của vua Càn Long. Trong chuyến đi này, để củng cố ngoại giao 2 nước, 2 bên đã đối đãi với nhau rất hậu. Vua Càn Long tổ chức yến tiệc lớn để chiêu đãi sứ thần nước Việt, ngược lại, đoàn sứ bộ nước ta cũng có nhiều hoạt động hữu hảo. Nhữ Trọng Thai đã làm một vế đối chuẩn mực, ca ngợi công trạng ông vua nhà Thanh.
Con số nào xuất hiện nhiều lần trong vế đối của Nhữ Trọng Thai?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Đầu năm Canh Tuất (1790), nhà Tây Sơn chọn võ tướng Nguyễn Quang Thực (một số sách ghi là Phạm Công Trị) có dung mạo giống vua Quang Trung để đóng giả làm quốc vương nước Nam dẫn đầu phái bộ gồm 150 người sang nhà Thanh, trong số đó có Nhữ Trọng Thai. Đoàn phái bộ nước Nam sang nhà Thanh đúng vào dịp Càn Long tổ chức lễ mừng thọ 80 tuổi và 55 năm ở ngôi hoàng đế, khắp nơi cờ hoa, đèn nến trang trí rực rỡ, lung linh đủ sắc màu; tại cửa Thiên An Môn còn treo một vế đối mừng viết trên tấm lụa hồng lớn mang đầy ý nghĩa chúc tụng: “Long phi cửu ngũ, ngũ thập ngũ niên, ngũ số hợp thiên, ngũ số hợp địa, ngũ đức tu, ngũ hành dụng, ngũ phúc lung linh hàm phượng liễu”, nghĩa là: “Trên ngôi cửu ngũ, trị vì 55 năm, số năm hợp với trời, số năm hợp với đất, sửa mình theo năm đức, trị nước theo ngũ hành, năm phúc chầu vào liễu phượng”. (Năm đức là: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Ngũ hành là: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Năm phúc là: Phú, quý, thọ, khang, ninh). Sau ngày làm việc và hành lễ, quan bộ Lễ nhà Thanh dẫn một số đại thần trong đoàn sứ của nước Việt đi ngoạn cảnh và đến trước Thiên An Môn, một người chỉ lên vế đối có ý nói mời bên ta đối lại. Nhữ Trọng Thai hỏi ngày tháng sinh của vua Càn Long rồi mượn giấy bút viết ngay vế đối: “Thánh thọ bát tuần, bát phùng bát nguyệt, bát thiên vi xuân, bát thiên vi thu, bát nguyên tiến, bát khải đăng, bát tiên cổ vũ hạ nghê thường”, nghĩa là: “Thánh thọ 80 tuổi, sinh ngày 8 tháng 8, tám nghìn mùa xuân, tám nghìn mùa thu, tám bậc hiền tới, tám bậc tài về, tám tiên múa nghê thường mừng thọ”. Câu đối có ý ca tụng một vị vua có tuổi thọ sống lâu, có nhiều nhân tài quy tụ phù tá thì ắt làm cho thiên hạ no ấm, cuộc sống yên ổn thái bình khiến cho thần tiên trên trời cũng phải múa hát mừng vui. Vế đối của Nhữ Trọng khiến vua quan nhà Thanh ai cũng khen ngợi, sau đó có lệnh truyền viết câu đối này vào một tấm lụa hồng treo một bên cửa Thiên An Môn, cùng với vế đối được treo trước đó đã tạo thành câu đối hoàn chỉnh mừng ngày đại lễ chúc thọ Càn Long 80 tuổi.
Sứ thần Việt nào từng chê vua Khang Hy “ếch ngồi đáy giếng” bằng vế đối: Tiểu oa đoản cảnh, mạn cư tỉnh đề khuy thiên (Chú ếch nhỏ cổ ngắn, ngồi dưới đáy giếng dòm trời)?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Nguyễn Đăng Cảo sinh năm 1614, người làng Hoài Bão (tức gọi là làng Bịu) huyện Tiên Du trấn Kinh Bắc, nay thuộc xã Liên Bão huyện Lên Sơn tỉnh Bắc Ninh. Tương truyền ông thông minh từ thuở nhỏ, năm 13 tuổi, đọc sách một lượt là thuộc hết, được mọi người gọi là thần đồng. Tính cách ông cũng khác người, ngang tàng và không chịu nhún nhường trước bất kỳ ai. Bằng tài năng và trí tuệ, Nguyễn Đăng Cảo khiến triều đình nhà Thanh nể phục, phê tặng ông danh hiệu Khôi nguyên Bắc triều. Vua Khang Hy nhà Thanh dùng áp lực để ép các nước nhỏ láng giềng phải cắt tóc kiểu đuôi sam của dân tộc Mãn Thanh, khiến vua Lê Hy Tông của nước Việt lúng túng không biết xử trí ra sao, bèn sai sứ thần Nguyễn Đăng Cảo sang thương lượng. Nguyễn Đăng Cảo lập luận sắc bén khiến các quan lại phương Bắc đuối lý đều đổ cho thiên tử vua nhà Thanh. Nguyễn Đăng Cảo bèn lập tờ trình dâng lên Khang Hy và được gọi vào kiến giá. Tại sân rồng, Khang Hy đưa ra vế đối nói rằng nếu đối được sẽ bãi bỏ lệnh ấy. Vế ra là: Lão khuyển lạc mao, do hướng đình tiền thệ nguyệt (Con chó già rụng hết lông còn hướng ra sân cắn bóng trăng). Nguyễn Đăng Cảo đối: Tiểu oa đoản cảnh, mạn cư tỉnh đề khuy thiên (Chú ếch nhỏ cổ ngắn, ngồi dưới đáy giếng dòm trời). Vua Khang Hy biết sứ thần An Nam xỏ lá nói mình là "ếch ngồi đáy giếng", nhưng vế đối niêm luật chặt chẽ không thể bắt bẻ được đành phê rằng: "Lời gọn, ý tận và sâu sắc, phong thêm là Khôi nguyên Bắc Triều" (phong Đăng Cảo là "Lưỡng quốc Khôi nguyên") và phải hạ lệnh bãi bỏ việc cắt tóc đuôi sam cho người Việt.
Trong 4 vị lưỡng quốc trạng nguyên, có một vị khi đi sứ sang Trung Quốc đã trả lời một câu đố được mệnh danh là “câu đố chết người”. Đó là vị nào?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án là D: Mạc Đĩnh Chi (1272-1346) tên chữ là Tiết Phu, người làng Lũng Động, Chí Linh, Hải Dương. Ông là trạng nguyên, đại thần và nhà ngoại giao lỗi lạc thời nhà Trần, và được cho là ông tổ của nhà Mạc sau này. Năm 1308 đời vua Trần Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, mừng vua Nguyên Vũ Tông mới lên ngôi.. Đó là lúc mới 20 năm sau chiến tranh chống quân Nguyên thứ 3 (1287-1288), sứ bộ bị nắn gân cốt rất mạnh. Tuy nhiên trong hoạt động bang giao ông đã tỏ rõ khí phách và tài năng của mình. Hoạt động và tài năng văn chương của ông đã để lại nhiều giai thoại nổi tiếng. Sau đó năm Nhâm Tuất (1322) ông đi sứ lần 2. Khi sứ bộ bái biệt vua Nguyên để về nước, thì họ ra câu đố hiểm hóc: "Có một chiếc thuyền, trong đó có vua, thầy học, và cha mình (quân, sư, phụ) bơi đến giữa sông chẳng may gặp sóng lớn đắm thuyền. Khi ấy ngươi ở trên bờ ra cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người thôi, thế thì ngươi cứu ai?". Vào thời kỳ đó, trả lời sai sẽ bị tội phanh thây, chém đầu hoặc lưu giữ lại, dẫn đến nước Việt mất nhân tài. Nhưng ông đã trả lời: "Thần đứng trên bờ, thấy thuyền bị đắm, tất phải vội vã nhẩy xuống sông bơi ra cứu, hễ thần gặp ai trước thì thần cứu người ấy trước, bất kể người ấy là vua, thầy học hay cha mình". Cuối cùng ông được ra về.
Mạc Đĩnh Chi là sứ thần Việt Nam khiến giặc phương Bắc "xanh mặt" và từng thắng cờ một người tự nhận là “Trạng cờ” Trung Quốc khiến người kia từ đó phải hạ tấm biển tự xưng “Trạng cờ” xuống?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Giai thoại về chuyện Mạc Đĩnh Chi đi sứ có rất nhiều. Trong đó ngoài những lần thể hiện tài thơ văn ứng đối ra thì còn một lần ông đánh bại người chơi cờ tướng giỏi nhất Trung Quốc.khiến người kia từ đó phải hạ tấm biển tự xưng “Trạng cờ” xuống. Thắng lợi này tuy chỉ là chuyện cá nhân nhưng qua đó cũng góp phần nâng cao thể diện quốc gia của Đại Việt. Lịch sử bang giao giữa phong kiến Việt Nam với các triều đại Trung Quốc kéo dài suốt 1.000 năm với những cuộc chiến và những năm chung sống hòa bình xen kẽ. Tuy nhiên dã tâm biến nước ta thành quận huyện thì các triều đại Trung Quốc không bao giờ từ bỏ. Chính trong bối cảnh đó, ngoại giao cũng là một mặt trận đấu tranh quyết liệt mà sứ thần Việt Nam thường bị làm khó dễ, bị thử thách nhưng vẫn thường giành thắng lợi.
Kết quả
Bạn hãy chăm chỉ hơn nhé!
Điểm