Tàng thư trên thân gỗ
Một buổi chiều đầu thu, tôi đứng trước nhà tàng bản. Trong ánh sáng xiên chiếu qua khe cửa, những phiến gỗ xếp ngăn nắp như quân cờ, mặt khắc lấp lóa vết thời gian. Trên đó là kinh, luật, truyện, thi kệ, niên phổ, pháp sự… một bức tranh chữ nghĩa của Trúc Lâm hiện lên qua nét đục nông sâu, qua dáng chữ Hán - Nôm có phần giản dị mà vẫn nghiêm cẩn. Mỗi tấm mộc bản là một bản thảo không thể thay thế. Mỗi vết nứt, vết mòn là dấu vết của tay người chạm khắc được lưu giữ qua thời gian.
Vĩnh Nghiêm từng là nơi Đệ nhị Tổ Pháp Loa phát triển giáo đoàn và hệ thống giới luật, là nơi Đệ tam Tổ Huyền Quang tiếp nối, mở rộng hoạt động giáo hóa. Tại đây, việc in ấn kinh sách không chỉ để tụng niệm trong chùa, mà để đưa đạo lý bước ra đời sống, tới nhà học, tới chợ búa, tới xóm làng. Truyền thống “khắc, in, truyền” biến tri thức thành thứ của cải có thể phân phát, không giữ kín trong số ít người biết chữ. Đạo lý Trúc Lâm, nhờ vậy, không chỉ nằm ở bài giảng, mà có thể chạm tay, mực sẫm vào giấy dó, phơi nắng ngoài sân gạch.
May mắn khi được một người anh giới thiệu và đặt lịch trước mấy ngày nên tôi được tiếp kiến Thượng tọa Thích Thanh Vịnh, Phó Trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm. Mời tôi một chén trà ấm nóng dưới tháp chuông cổ kính, bên ngoài trời đổ cơn mưa rào, thầy Thanh Vịnh chậm rãi kể từng chi tiết về lịch sử của chùa, của mộc bản và những câu chuyện về hoằng pháp của Trúc Lâm nơi đồng bằng.
“Hiện chùa đang lưu giữ hơn 3.000 mộc bản, đa số được khắc từ thời Hậu Lê, trong đó chứa đựng các kinh luật quan trọng về hệ tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm. Những trước tác của Phật hoàng, của Pháp Loa, của Huyền Quang… khi đi qua bàn tay khắc in, đã thành sách dạy người biết tiết độ, biết thương người yếu thế, biết giữ môi sinh như giữ chính thân tâm”, Thượng tọa Thích Thanh Vịnh nói.
Điều đáng chú ý nhất khi thầy Thanh Vịnh giải thích vì sao nhiều mộc bản phải mất tới hàng chục năm mới có thể hoàn thành là vì vấn đề kinh phí. Khi có kinh phí mới có thể thực hiện vì thời đó, mỗi chữ khắc vào ván gỗ đều được tính bằng vàng. Đặc biệt có những gia đình liên tiếp 2 thế hệ ở lại chùa để khắc chữ.
“Thợ khắc chữ thời đấy đa số đều ở huyện Ninh Giang (Hải Dương cũ), có những bộ mộc bản cả đời cha khắc chưa xong thì đến đời con nối tiếp. Quá trình này diễn ra cả vài chục năm để có được một bộ mộc bản hoàn chỉnh. Đơn giản như bây giờ, mỗi chữ người ta chỉ lấy 5 nghìn đồng, tính ra tiền hiện nay có bản phải mất gần cả trăm triệu đồng”, vừa kể, Thượng tọa Thanh Vịnh vừa chậm rãi tiếp trà.
Ở Vĩnh Nghiêm, tàng thư gỗ không đứng riêng một mình. Nó nằm giữa một chỉnh thể kiến trúc cảnh quan tam quan, tam bảo, gác chuông, tháp mộ Tổ, sân gạch, ao bán nguyệt, vườn cây. Cấu trúc ấy tạo ra một “không gian đọc” rất Việt, người ta đọc bằng mắt, bằng tay, và bằng bước chân. Bước từ sân gạch vào nhà tàng bản, ta đổi nhịp thở. Xem một tấm mộc bản, ta đổi cách nhìn. Nghe tiếng chuông chiều, ta đổi hẳn giọng nói với nhau nhỏ nhẹ, chậm hơn.
Từ thiền môn đến đời thường
Nếu Yên Tử là ngọn núi khởi đạo, thì Vĩnh Nghiêm là nhà học của Trúc Lâm. Ở đây, tri thức không phải để tích lũy cho riêng ai, mà để vận dụng vào đời sống. Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, lời cũ nhưng nghĩa không cũ.
Trên bức tường gỗ, tôi đọc được vài câu kệ ngắn, gãy gọn như mệnh lệnh nội tâm. Cái hay của Trúc Lâm là không dồn người vào góc hẹp khắc kỷ, cũng không thả người vào vùng mờ buông thả. Đạo của Trúc Lâm đặt giữa đời, khiến người tu học phải nhìn thấy ruộng đồng, chợ búa, đường sá, bến nước. Khi một vị tăng đọc Cư trần lạc đạo giữa sân chùa, người không rời khỏi đời sống mà người đang chỉ đường cho đời sống “giữa trần mà lạc đạo”, “ở đời vui đạo”, “thấy đủ mà an”.
Từ thiền đường, giáo lý đi thẳng xuống đình, đền, miếu, chợ. Nhiều văn bản trong bộ mộc bản không chỉ dùng trong chùa mà còn dùng trong lễ hội làng, trong ngày việc họ, trong các nghi lễ chuyển mùa. Khi một cộng đồng nông nghiệp phải đối diện với lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, các bản văn hướng thiện, khuyến thiện giúp hàn gắn tinh thần, khơi dậy lối sống tương trợ.
“Rõ nét nhất là qua đại dịch COVID-19, những nơi khác thầy không biết nhưng riêng ở làng Đức La này, tinh thần nhập thế, yêu thương đùm bọc nhau trong hoạn nạn của Trúc Lâm được thể hiện rõ nhất. Mặc dù đã qua hơn 700 năm nhưng tính thiện đã ăn sâu vào đời sống của người dân. Giúp đỡ nhau trong khó khăn, nhường cơm sẻ áo vượt qua hoạn nạn”, Thượng tọa Thanh Vịnh kể.
Trong ngôn ngữ hiện đại, ta có thể gọi Vĩnh Nghiêm là một “platform”, nền tảng kết nối người biên soạn, thợ khắc, nhà in, tăng chúng, và cộng đồng. Nền tảng ấy không hoạt động bằng thuật toán, mà bằng kỷ luật và uy tín. Ở đây, thẩm quyền tinh thần đi cùng năng lực tổ chức. Ai được phép khắc, in? Ai được duyệt bản thảo? Ai chịu trách nhiệm lưu trữ? Ai cầm đi truyền bá? Mỗi “vai” rõ ràng là một bài học quý trong quản trị văn hóa.
Vì sao điều này quan trọng? Bởi niềm tin xã hội không tự có, nó cần kiến trúc. Một nghi lễ chuẩn tắc, một bài học đạo đức được in đúng, truyền đúng, lập lại đúng… tạo nên sự lặp có ý nghĩa. Con người tin vào những gì ổn định và nhất quán. Vĩnh Nghiêm đóng góp vào niềm tin ấy bằng hình hài chữ khắc.
Chiều xuống trên sân gạch đỏ, tiếng chuông trở nên trong hơn. Trong khoảnh khắc, tôi nghĩ, nếu Yên Tử trao cho người đi một ngọn lửa nội tâm, thì Vĩnh Nghiêm trao cách giữ lửa bằng kỷ luật, bằng tri thức, bằng sự chăm chút của những bàn tay vô danh. Từ đây, mạch Trúc Lâm lại chảy tiếp về Côn Sơn-Kiếp Bạc, gặp gỡ một mạch nguồn khác, mạch nguồn hào khí, trung với nước, nghĩa với dân. Nhưng trước khi gặp gỡ, phải có nền và nền ấy chính là Vĩnh Nghiêm.
(Còn nữa)
H.D
Vĩnh Nghiêm từng là nơi Đệ nhị Tổ Pháp Loa phát triển giáo đoàn và hệ thống giới luật, là nơi Đệ tam Tổ Huyền Quang tiếp nối, mở rộng hoạt động giáo hóa. Tại đây, việc in ấn kinh sách không chỉ để tụng niệm trong chùa, mà để đưa đạo lý bước ra đời sống, tới nhà học, tới chợ búa, tới xóm làng.