Theo nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bố mẹ Trịnh Công Sơn đều từng hoạt động kháng chiến. Sau khi bố ông qua đời trên đường công tác, mẹ cho Trịnh Công Sơn và các em quy y, lấy pháp danh Nguyên Thọ. Sơn tụng kinh ăn chay tháng 4 lần, đầu giường luôn có chuỗi hạt và áo lam.
Bửu Ý mô tả Trịnh Công Sơn ở tuổi 18 tuổi, “sung mãn”, “yêu đời”, ưa tập tạ, judo, từng giật giải về chạy. Do bị tai nạn, phải nằm nhà dưỡng bệnh, Sơn mới bắt đầu viết bài hát. Hai bài đầu tay Sương đêm và Chơi vơi đã được Hà Thanh thể hiện nhưng rồi thất lạc. Bài hát được ấn hành đầu tiên là Ướt mi (1958).
![]() |
| Trịnh Công Sơn suy tư và khiến người nghe trực nhận qua những lời hát đậm chất thơ. |
Bạn bè rời xa chăn chiếu
Tuổi 20 ở Huế, Sơn sáng tác bất cứ lúc nào, nhất là về đêm. Khi đó ông sẽ bật dậy, “thắp một ngọn đèn nhỏ đủ sáng và ngồi trong bóng tối giữa căn phòng độc nhất của căn hộ với mẹ, các em và một hai bạn ngủ chung quanh”. Bửu Ý kể tiếp: “Trịnh Công Sơn thuở sinh viên luôn cần đến hơi người. Anh cần thấy và nghe tiếng nói cười, luôn cả nơi xao náo, tranh luận. Rồi sau đó mới rút lui về góc riêng. Đặt chân tới một nơi nào đó, dù quen hay lạ, anh vẫn cảm thấy cái nhu cầu ‘xuống phố’.” Khánh Ly cũng xác nhận: “Ngày nào ông cũng tắm mấy bận, tắm xong ra phố ngồi vì phải nhìn thấy mọi người, không nhìn thấy mọi người, lòng không yên”.
“Để thực hiện hành động tố cáo chiến tranh bằng bài hát, Trịnh Công Sơn đã phải luôn sẵn sàng một cuộc chạy tháo thân trước chính quyền Sài Gòn, phải lìa xa chỗ trú ẩn của mình trở thành một kẻ vô gia cư, phải chấp nhận một cảnh ngộ khó khăn về kinh tế vì đã bị tước mất quyền được có một nghề nghiệp, và một nỗi đau héo mòn vì thiếu máu”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Một người bạn từng nhiều lần nghe tâm sự “thất tình” của họ Trịnh là Thái Kim Lan viết: “Cô đơn vì người tình hờn dỗi lắm khi không cô liêu bằng khi ‘bạn bè rời xa chăn chiếu’.” Nhưng ca từ Lời buồn thánh (1964) không chỉ diễn tả tâm trạng “bơ vơ” đơn thuần vì thiếu “hơi người”. Giai đoạn này nhạc sĩ cũng đang “tham gia hết mình vào những phong trào sinh viên”. Và rất có thể những người bạn không còn lui tới vì họ đã phải đi lính. Chả thế mà Hoàng Phủ Ngọc Tường coi Lời buồn thánh là bài hát phản chiến đầu tiên của Trịnh Công Sơn. Dù bài hát không một chữ nhắc về chiến cuộc.
Biểu tượng phản chiến
Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ phản chiến “lừng danh và duy nhất” của Việt Nam, và nhạc phản chiến của họ Trịnh là một phần “di sản văn hóa lớn lao của nhân loại”. Theo ông Tường, thời điểm quân đội Mỹ chính thức tham chiến (1965) và “trang bị tận răng” cho quân đội Việt Nam Cộng hòa khiến cho cuộc chiến mang màu sắc phi nhân tính, “dạy cho người Việt Nam quen thói thờ ơ trên máu của chính dân tộc mình”. Và “những yếu tố này đã thúc đẩy tâm trạng phản chiến ở Trịnh Công Sơn”.
Trịnh Công Sơn có 3 lần trốn lệnh nhập ngũ của chính quyền Sài Gòn. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường trong liền hai năm 1965 và 1966, Trịnh Công Sơn đều mất một tháng nhịn ăn nhịn ngủ để không đạt tiêu chuẩn nhập ngũ. Mấy ngày trước khi trình diện, ông sẽ nhịn ăn tuyệt đối và uống thuốc xổ (Diamox) để cơ thể mất nước, sụt cân nhanh chóng. Kết quả là “người mệt lử và bước đi hụt hẫng như chìm vào khoảng không”. Trong vụ này, Trịnh Công Sơn may mắn hơn người bạn tên Đỗ - bị thuốc xổ ảnh hưởng đến tâm thần, thành mất trí.
![]() |
| Trịnh Công Sơn (bìa phải) khi mới tốt nghiệp Trường Sư phạm Quy Nhơn năm 1964. Ảnh tư liệu. |
Lần thứ 3 bị gọi nhập ngũ, Trịnh Công Sơn không chọn hành xác nữa mà đơn giản là nhập vào lớp thanh niên “sống ngoài vòng pháp luật với lương tâm hoàn toàn tự do”. Có lẽ ông cũng ý thức được tác hại của biện pháp cực đoan kia. Nó không chỉ hại sức mà còn khiến ông không sáng tác được. Lần vạ vật nay đây mai đó này cũng chính là giai đoạn Trịnh Công Sơn viết nhiều nhạc phản chiến. Quán Văn vừa là sân khấu vừa là chỗ ngủ của Trịnh Công Sơn và những người trốn lính như ông. Khánh Ly kể có lần hát mê mải xong ở lại cùng nhạc sĩ và nhóm bạn toàn con trai, trải báo ngủ lăn trên bãi cỏ, nền sân “như đám bụi đời”. Một chỗ nương náu ưa thích nữa là Hội Họa sĩ trẻ thành phố lúc đó cũng “đông nghịt những thanh niên trốn lính”. Thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn cũng quay về Huế, trốn trên tầng áp mái trong căn nhà ở 11/3 Nguyễn Trường Tộ.
“Ca khúc về cuộc chiến của Sơn thường gây ý thức, đặt vấn đề hay trình bày vấn đề, hoàn cảnh, số phận để mỗi một người chúng ta lấy quyết định mà hành động. Và khi đã lấy quyết định rồi thì tự mình gánh lấy trách nhiệm, chứ không thể đổ tội cho bài ca. Bởi thế tôi nghĩ rằng những trách cứ về Sơn, buộc tội Sơn có hơi vội vàng do sự ngộ nhận bản chất thật sự của những ca khúc Trịnh Công Sơn mà có lẽ trong một dịp khác phải được phân tích và đánh giá lại một cách trung thực”.
Thái Kim Lan
Hoàng Phủ Ngọc Tường khẳng định “phản chiến” là một thái độ cần thiết trước cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam: “Chẳng lẽ một cuộc chiến tranh đã gây xúc động đến thế đối với những con người ở tận bên kia đại dương như Bob Dylan, Joan Baez, thế mà từ phía những người trong cuộc lại chỉ có sự im lặng đáng sợ…”?!
Có thể vẫn có người cho rằng Trịnh Công Sơn không có “lập trường”, nhưng ông Tường khẳng định viết nhạc phản chiến nghĩa là nhạc sĩ đang “tuân thủ những yêu cầu của nghệ thuật”. Lập trường nghệ thuật của nhạc sĩ khiến người quan sát đôi khi cảm giác ông đứng ngoài cuộc, nhưng không. Thái Kim Lan viết sau khi Trịnh Công Sơn mất: “Mãi đến hôm nay mới biết được - dù hãy còn mơ hồ - người trong cuộc hay người ngoài cuộc, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm hơn ai, và tình bạn hữu đã khắng khít như thế nào giữa người đứng trong và người đứng ngoài hàng rào dây kẽm gai…”.
Đối diện cái chết
Khánh Ly: “Ông Sơn rất dễ thương. Tôi nghĩ ông nên đi tu mới phải vì ông hiền lắm. Bất kể chuyện lớn nhỏ gì tôi nói với ông, ông hỏi câu rất thờ ơ ‘Thật à?’”. GS Thái Kim Lan cũng mô tả Trịnh Công Sơn thời trẻ tỏ ra thờ ơ giữa cuộc triết luận của chúng bạn là sinh viên ở Huế. Thậm chí không buồn thay đổi dáng ngồi, “tham dự nhưng không ồn ào, hiền hậu và luôn luôn thoải mái, chú ý mà không chút chi cố gắng, và “ánh mắt xa xôi với những chuyện cãi vã cốt dành phần lý về mình”.
Nhưng khi Sơn cất tiếng bằng âm nhạc thì bà Lan giật mình: “Vì Sơn hát... môn siêu hình học về cuộc đời, về tình yêu đó! Cái môn mà những con sâu gạo triết là chúng tôi đang còn điên đầu vật lộn với nó. Nhưng ngược lại, chẳng có một chút khô khan, trừu tượng, gượng ép hay kỳ quặc gì cả, Sơn đã hát triết học như một bà mẹ Huế có giọng nói hay nhất trên đời kể chuyện Tấm Cám”. Bà Lan cảm nhận âm nhạc của Trịnh Công Sơn như thể tiếng gõ cửa từ phương xa giải thể các triết gia trẻ tuổi “ra khỏi ngõ bí của tư duy”. Một cách phát biểu không ai có thể bắt bẻ.
Đó là khi những lời hát “Không có đâu em này/ Không có cái chết đầu tiên/ Và có đâu bao giờ đâu có cái chết sau cùng/ Tự mình biết riêng mình/ Và ta biết riêng ta” được vang lên. “Người nghe có thấy mâu thuẫn hay không cũng phải mỉm cười, và bỗng ngộ được tính phi lý của sự đối nghịch trước sau,” Thái Kim Lan viết.
Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ ra nghệ thuật với Trịnh Công Sơn là “một cách thể đối diện với cái chết”. Và đó cũng là một biện pháp hữu hiệu vượt qua cái chết. Để đến giờ này, nhạc Trịnh, tinh thần Trịnh vẫn sống động giữa đông đảo những người lắng nghe ông.

