| Về khu di tích Nguyễn Công Trứ ở Hà Tĩnh. Video: Phạm Trường. |
![]() |
| Quần thể khu di tích Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ được chia làm hai phần, gồm khu mộ và nhà thờ lưu niệm. Khuôn viên khu lưu niệm, nhà thờ của ông rộng khoảng 2.000m2, ở xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Năm 1991, nơi này được xếp hạng Di tích lịch sử, văn hóa quốc gia. |
![]() |
| Nguyễn Công Trứ (1778-1858), tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân. Theo một số tài liệu, ông sinh ra ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ (Thái Bình), đến năm 10 tuổi mới theo gia đình về quê cha ở Hà Tĩnh. Từ nhỏ, ông sống trong cảnh nghèo khó nhưng luôn nuôi ý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp. Mãi đến năm 1819, khi đã 41 tuổi, Nguyễn Công Trứ mới thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan. Theo sử sách, ông làm quan ở các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nổi tiếng là thanh liêm, chính trực, tài trí hơn người. |
![]() |
| Ông là người có công lớn giúp triều đình nhà Nguyễn ổn định đất nước, đưa ra nhiều chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt có sáng kiến chiêu mộ dân binh lưu tán, đắp đê lấn biển, khai hoang tạo nên những cánh đồng rộng lớn canh tác nông nghiệp cho mùa màng bội thu. Trong hình là khuôn viên nhà thờ được xây tường bao quanh. Cổng ra vào bố trí hai cột nanh viết chữ Hán, trên có nghê chầu. |
![]() |
| Nhà thờ có ba gian, đều bằng gỗ lim. Mặt sau và hai đốc xây gạch kín, mái lợp ngói vây. Mặt tiền có 4 trụ đứng đỡ chân mái, thân trụ trước khắc nhiều câu đối bằng chữ Hán. |
![]() ![]() ![]() |
| Bên trong là các gian thờ ông và dòng họ, bức chân dung của ông cùng ban thờ được sơn son thiếp vàng. Nguyễn Công Trứ không chỉ là nhà quân sự, nhà khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ nổi bật trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. Thơ ca của ông xoay quanh các chủ đề như chí nam nhi, cảnh nghèo và thế thái nhân tình hay triết lý hưởng lạc. Có những câu thơ mà chỉ cần nhắc tới là người đời nghĩ ngay tới ông như: "Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông", hay "Trời đất cho ta một cái tài/ Giắt lưng dành để tháng ngày chơi". |
![]() |
| Bốn mặt bia ghi tiểu sử, công trạng của Nguyễn Công Trứ bằng tiếng Việt - Anh - Pháp - Hoa. |
![]() |
| Chếch bên trái nhà thờ là nhà hát ca trù được dựng bằng nhiều cột gỗ lim. Phía trong là sạp diễn và sạp ngồi được xếp theo hình chữ U. |
![]() ![]() |
| Chính quyền địa phương thường tổ chức các buổi biểu diễn ca trù, sinh hoạt văn hóa cộng đồng tại đây. Theo sử sách, Nguyễn Công Trứ là người sáng tác ca trù nhiều nhất, là người có công lớn trong việc hoàn thiện thể thơ hát nói. Các nhà nghiên cứu sau này đã xưng tụng Uy viễn tướng công là "ông hoàng hát nói". |
![]() |
| Cách đó khoảng 300 m là khu mộ Nguyễn Công Trứ với diện tích 3.000 m2, được người dân Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) cùng con cháu dòng họ xây năm 1868. |
![]() |
| Mộ Nguyễn Công Trứ xây bằng đá, hình chữ nhật, đầu hướng phương Bắc, dài 2,2 m, rộng 1,1 m, phía trên vát kiểu mái nhà. Trong khuôn viên còn có mộ phần của các cụ thân sinh và con cháu trong đại gia đình Nguyễn Công Trứ. |
![]() |
| Ngày 14/11 Âm lịch hàng năm, chính quyền địa phương cùng dòng họ Nguyễn Công tổ chức ngày giỗ Uy Viễn Tướng Công - Danh nhân Nguyễn Công Trứ. |













