Theo số liệu của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), ngành Dệt may là một trong những ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam, đóng góp khoảng 12% GDP công nghiệp và chiếm 5% tổng GDP cả nước. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển mạnh mẽ là mức tiêu thụ năng lượng rất lớn. Hiện nay, năng lượng chiếm khoảng 8-10% tổng chi phí sản xuất trong toàn ngành, và có thể lên tới 20-25% tại một số công đoạn tiêu tốn nhiều như nhuộm, giặt là. Các khâu sản xuất chính như kéo sợi, nhuộm, hoàn tất và may mặc đều cần lượng điện, hơi nước và nhiên liệu hóa thạch lớn để vận hành máy móc, xử lý nhiệt và vận chuyển nguyên liệu.
Thực tế, mức tiêu thụ điện trung bình của một nhà máy dệt nhuộm dao động từ 0,2-0,4 kWh/kg vải; đồng thời cần tới 80-100 kg hơi cho mỗi tấn vải. Dù có tiềm năng tiết kiệm năng lượng lớn, nhưng nhiều doanh nghiệp trong ngành vẫn đang sử dụng thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, dẫn đến hiệu suất thấp và phát thải cao. Chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ tiết kiệm năng lượng vẫn là rào cản lớn, trong khi nhận thức và hệ thống quản lý năng lượng ở nhiều doanh nghiệp còn hạn chế.
Trước thực trạng tiêu thụ năng lượng ở mức cao nhưng chưa thực sự hiệu quả, ngành Dệt may buộc phải tìm kiếm những hướng đi mới để giảm chi phí vận hành, đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu và tiến tới phát triển bền vững.
Ông Mai Văn Huyên, Giám đốc Trung tâm Phát triển xanh cho biết, Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới với kim ngạch đạt trên 40 tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, đi cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ là áp lực về chi phí sản xuất, yêu cầu khắt khe từ thị trường quốc tế và thách thức về môi trường. Trong đó, năng lượng là một trong những yếu tố then chốt bởi ngành dệt may hiện đang tiêu thụ khoảng 8% tổng năng lượng công nghiệp quốc gia và phát thải khoảng 5 triệu tấn CO2 mỗi năm với nhiều nhà máy vẫn sử dụng thiết bị công nghệ lạc hậu, hiệu suất thấp. Với tiềm năng tiết kiệm khoảng 20% năng lượng tiêu thụ, các doanh nghiệp cần chủ động thực thi những giải pháp tiết kiệm năng lượng để giảm chi phí đầu vào và gia tăng các lợi thế cạnh tranh.
Việc tiết kiệm năng lượng không chỉ là một lựa chọn để giảm giá thành sản phẩm, tối ưu hóa chi phí sản xuất mà trong trong thời kỳ “chuyển đổi xanh” của thương mại toàn cầu, việc sản xuất tiết kiệm năng lượng, phát thải thấp còn là điều kiện tiên quyết để giữ vững thị trường xuất khẩu, đặc biệt vào các nước EU, Mỹ, Nhật Bản – những nơi đã bắt đầu áp dụng cơ chế thuế carbon và yêu cầu truy xuất nguồn gốc phát thải.
Đại diện Công ty TNHH Sợi dệt Hương Sen Comfor (Cụm công nghiệp Đông Hải, Quỳnh Phụ, Thái Bình) cho biết, công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh sợi dệt cao cấp với tổng công suất 73 ngàn cọc sợi, phục vụ nhu cầu nội địa và quốc tế. Bên cạnh các hoạt động phát triển sản phẩm, công ty luôn quan tâm đến các giải pháp tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường, hướng tới tăng trưởng xanh.
Để sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, công ty đã đầu tư sử dụng dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại, tự động hóa cao thuộc top đầu trong nghệ sợi dệt như: Dây cung bông chải, Máy ghép và máy con của hãng Rieter (Thuỵ Sĩ); Máy thô của Electrojet (Tây Ban Nha); Máy ống của Savio (Italya)... Hệ thống giám sát năng lượng báo cáo về thông số điện năng sử dụng hàng ngày đều được cập nhật theo thời gian thực và xuất ra dưới dạng báo cáo để gửi về bên thống kê.
“Để giảm sử dụng điện lưới quốc gia, công ty đã đầu tư và đưa vào vận hành hệ thống điện năng lượng mặt trời mái nhà công suất 2,2MWp, cung ứng một phần điện cho nhà máy số 1 và nhà máy số 2. Hệ thống này vào khung giờ công suất cực đại có thể đáp ứng đủ lượng điện cho hoạt động sản xuất của nhà máy số 1 với công suất trung bình khoảng 10.000 kWh/ngày”, đại diện công ty cho biết.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc điều hành Tổng Công ty Cổ phần Dệt May Hòa Thọ cho biết, Hòa Thọ luôn xem tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường là nền tảng cho sự phát triển lâu dài, thể hiện qua nhiều giải pháp đầu tư đồng bộ cho sản xuất xanh - sạch - tuần hoàn. Toàn bộ hệ thống nhà máy mới được đầu tư theo hướng xanh hóa, đảm bảo tiêu chuẩn LEED và ISO 14001.
Bên cạnh công tác đầu tư mới, Hòa Thọ cũng tập trung cho công tác đầu tư chiều sâu để thay thế các thiết bị cũ, lạc hậu bằng các thiết bị hiện đại, tự động hóa cao để tiết kiệm nhiên liệu trong vận hành; quản lý năng lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 5001.
Năm 2020, sản lượng điện năng tiêu thụ của Hòa Thọ là 33,7 triệu kWh và giảm còn 32,5 triệu kWh trong năm 2024. Sản lượng nhiên liệu hóa thạch trong hoạt động lò hơi giảm rõ rệt nhờ đầu tư vào công nghệ xử lý nhằm tiết kiệm nguồn nguyên liệu đốt, giảm khói bụi nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả trong sản xuất.
Bên cạnh tiết kiệm năng lượng trong sản xuất, Dệt may Hòa Thọ còn đầu tư lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời áp mái, với kế hoạch lắp đặt phủ kín các mái nhà của Tổng Công ty trong năm 2025, tổng sản lượng điện mặt trời đạt 5.500 kWp.
Đơn vị cũng đã ký cam kết với khách hàng cắt giảm 2% lượng phát thải trên một đơn vị sản phẩm vì mục tiêu giảm thiểu tác động của môi trường đến cộng đồng giai đoạn 5 năm từ 2023 - 2028.
Những kết quả đạt được trong hành trình tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải và chuyển đổi số đã giúp Hòa Thọ trở thành đơn vị tiêu biểu của ngành Dệt may Việt Nam trong thực hành sản xuất xanh. Doanh nghiệp được các đối tác quốc tế đánh giá cao và ưu tiên trong các đơn hàng yêu cầu tiêu chuẩn bền vững.
Ông Đặng Hải Dũng, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công, Bộ Công Thương cho rằng, trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả không chỉ là yêu cầu cấp bách nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, mà còn là nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện cam kết giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 mà Chính phủ đã tuyên bố tại COP26.
Theo ông Dũng, nhu cầu năng lượng của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng nhanh, trung bình 8–10% mỗi năm trong giai đoạn vừa qua. Dự báo đến năm 2030, tổng nhu cầu năng lượng sơ cấp có thể đạt 150–170 triệu TOE, gần gấp đôi so với năm 2020. Trong khi tiềm năng tiết kiệm năng lượng của chúng ta còn rất lớn. Theo tính toán, khu vực công nghiệp, chiếm hơn 47% tổng tiêu thụ năng lượng quốc gia, có thể tiết kiệm 20 – 30% nếu áp dụng quản lý và công nghệ hiện đại. Khu vực xây dựng, thương mại và dân dụng có thể tiết kiệm 15–20% điện năng nhờ áp dụng thiết kế, vật liệu và thiết bị hiệu suất cao. Ngành giao thông vận tải có thể giảm 10–15% nhiên liệu thông qua tiêu chuẩn kỹ thuật và quản lý phương tiện.
“Hiện nay, cả nước có khoảng 3.500 cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, chiếm tới 60% tổng mức tiêu thụ năng lượng. Chỉ cần mỗi cơ sở này tiết kiệm được 1% điện năng, cả nước có thể giảm tiêu thụ hàng tỷ kWh mỗi năm, tiết kiệm hàng ngàn tỷ đồng chi phí và cắt giảm hàng triệu tấn CO₂”, ông Dũng cho hay.
Số liệu khảo sát của Chương trình Quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 - 2030 cho thấy, ngành công nghiệp chiếm khoảng 50% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc, ước tính lượng phát thải từ ngành năng lượng chiếm tới 73%.
Các nghiên cứu cũng cho thấy, tiềm năng tiết kiệm năng lượng trong công nghiệp tại Việt Nam được đánh giá là rất lớn, vào khoảng từ 20% - 30% tổng năng lượng tiêu thụ. Điều này đồng nghĩa Việt Nam có thể tiết kiệm hàng chục nghìn tỷ đồng đầu tư mỗi năm cho phát triển nguồn điện chỉ bằng việc áp dụng và thực hiện nghiêm túc việc chuyển đổi mạnh mẽ trong sản xuất thông qua tăng cường kỹ năng quản trị, chuyển đổi sản xuất.
Về việc tại sao hiệu quả tiết kiệm điện vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, ông Trần Viết Nguyên, Phó Trưởng ban Kinh doanh và Mua bán điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho rằng, thực tế các doanh nghiệp có nhận thức, hiểu vấn đề tiết kiệm điện rất quan trọng trong quá trình hoạt động, sản xuất nhưng lại chưa thực thi tốt và đầy đủ các quy định về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Theo ông Nguyên, nguyên nhân đầu tiên là do thiếu động lực từ phía doanh nghiệp: Người đứng đầu doanh nghiệp - đặc biệt là doanh nghiệp trong nước vẫn chưa thực sự coi trọng tiết kiệm năng lượng. Bên cạnh đó, là giá điện cho sản xuất kinh doanh hiện nay thấp hơn so với các nhóm khách hàng khác nhờ chính sách ưu tiên của Chính phủ. Vì thế, doanh nghiệp chưa có nhiều động lực đầu tư vào các giải pháp tiết kiệm năng lượng vốn đòi hỏi chi phí lớn.
Thứ hai, chi phí đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị rất cao cũng là trở ngại. Doanh nghiệp có nhận thức về tiết kiệm năng lượng, nhưng để thay đổi cả dây chuyền sản xuất hoặc một phần quan trọng của dây chuyền thì cần vốn lớn. Trong khi đó, các cơ chế hỗ trợ tài chính (vay ưu đãi, quỹ tín dụng xanh…) gần như chưa có, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc bố trí nguồn vốn. Hiện tại, vốn của họ chủ yếu tập trung cho hoạt động sản xuất - kinh doanh ngắn hạn, chỉ có thể thay thế một số thiết bị nhỏ lẻ, chứ khó thực hiện những dự án tiết kiệm năng lượng quy mô lớn.
Cùng với đó, mặc dù Nhà nước đã ban hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, các nghị định, thông tư và cả chế tài xử phạt, nhưng trên thực tế việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm còn rất hạn chế. Tính răn đe chưa đủ mạnh, khiến nhiều doanh nghiệp chưa thực sự tuân thủ. Ở các địa phương, Sở Công Thương và các đoàn liên ngành có trách nhiệm kiểm tra định kỳ, nhưng kết quả xử lý còn ít.
Về giải pháp, theo ông Trần Viết Nguyên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (có hiệu lực từ tháng 1/2026) sẽ là “cú hích” mạnh mẽ cho các doanh nghiệp trong thời gian tới. Bởi Luật được ban hành sẽ mở rộng phạm vi áp dụng, bổ sung nhiều quy định bắt buộc với các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm.
Luật mới quy định thành lập Quỹ tài chính quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, với nguồn lực từ ngân sách và xã hội hóa, giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn vay ưu đãi hoặc được hỗ trợ tài chính khi đầu tư giải pháp tiết kiệm năng lượng.
Đặc biệt, Luật cũng quy định cụ thể mô hình Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO) và các khung pháp lý liên quan. Việc luật hóa định nghĩa, phạm vi hoạt động và cơ chế tài chính cho mô hình ESCO sẽ giúp tăng tính minh bạch, tạo niềm tin cho doanh nghiệp và nhà đầu tư. Đây là các đơn vị chuyên cung cấp trọn gói giải pháp tiết kiệm năng lượng - từ khảo sát, thiết kế, kiểm toán, đầu tư thiết bị đến vận hành và chịu rủi ro tài chính thay cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ cần đồng ý triển khai, chi phí sẽ được ESCO thu hồi dần từ lợi ích tiết kiệm năng lượng.
“Tiết kiệm năng lượng không chỉ là một khẩu hiệu, mà là chiến lược quốc gia gắn với an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Những gì Chính phủ, Bộ Công Thương, EVN và các địa phương đã làm trong thời gian qua cho thấy quyết tâm mạnh mẽ. Nhưng để chính sách thực sự đi vào đời sống, cần một cơ chế giám sát chặt chẽ, chế tài đủ mạnh và trên hết là sự đồng thuận, thay đổi thói quen của hàng triệu người dân, doanh nghiệp”, ông Trần Viết Nguyên nhấn mạnh.