Thưa ông, sau sáp nhập, quy mô các khu công nghiệp của Bắc Ninh tăng mạnh. Công tác kiểm soát ô nhiễm tại các khu công nghiệp hiện nay được triển khai như thế nào?
Ông Vũ Văn Tưởng: Sau sáp nhập, Bắc Ninh là địa phương có mật độ công nghiệp thuộc nhóm cao của cả nước. Hiện nay, toàn tỉnh có 43/52 khu công nghiệp đã được phê duyệt quy hoạch với tổng diện tích 13.141 ha; trong đó 35 khu công nghiệp đã được phê duyệt chủ trương đầu tư, diện tích 10.495 ha. Diện tích đất công nghiệp và đất hành chính – dịch vụ đã cho thuê khoảng 4.087 ha/7.425,07 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy 55,04%.
Quy mô lớn đặt ra yêu cầu rất cao đối với công tác kiểm soát nguồn thải. Quan điểm của tỉnh Bắc Ninh là phát triển công nghiệp không đánh đổi môi trường. Vì vậy, ngay từ khâu thẩm định dự án, các khu công nghiệp đều phải hoàn thiện đầy đủ thủ tục pháp lý về bảo vệ môi trường, đặc biệt là hạ tầng thu gom, xử lý nước thải tập trung.
Song song với đó, tỉnh Bắc Ninh tăng cường kiểm tra, giám sát việc vận hành các hệ thống xử lý, yêu cầu các doanh nghiệp có nguồn thải lớn lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục, truyền dữ liệu về Sở Nông nghiệp và Môi trường để theo dõi 24/7.
Còn đối với các cụm công nghiệp, tỉnh Bắc Ninh đang đối mặt với những khó khăn gì, thưa ông?
Ông Vũ Văn Tưởng: Hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 67/96 cụm công nghiệp đã được đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và đi vào hoạt động, với diện tích 2.172 ha. Diện tích đã cho thuê đạt 1.070/1.458,8 ha, tương đương tỷ lệ lấp đầy 73,34%.
Tuy nhiên, thẳng thắn nhìn nhận, mới có 39/67 cụm công nghiệp có hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung, đạt 58,2%. Đây là thách thức lớn, nhất là với các cụm công nghiệp hình thành sớm, hạ tầng chưa đồng bộ.
Tỉnh Bắc Ninh đã và đang yêu cầu các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải; đồng thời tăng cường thanh tra, kiên quyết xử lý các cụm công nghiệp không đáp ứng yêu cầu môi trường. Quan điểm của tỉnh Bắc Ninh là không vì thu hút đầu tư mà nới lỏng tiêu chuẩn môi trường.
Hoạt động sản xuất tại các làng nghề lâu nay cũng gây nhiều áp lực. Bắc Ninh đang quản lý vấn đề này ra sao?
Ông Vũ Văn Tưởng: Bắc Ninh hiện có 27 làng nghề được công nhận. Kết quả khảo sát cho thấy, mỗi ngày các làng nghề này phát sinh khoảng 3.015 m³ nước thải, chỉ chiếm 0,57% tổng lượng nước thải của tỉnh. Tuy tỷ lệ không lớn, nhưng do phân tán, xen kẽ trong khu dân cư nên nguy cơ ô nhiễm cục bộ là rất rõ.
Chúng tôi tập trung giải pháp theo hướng kiểm soát tại nguồn, yêu cầu các cơ sở sản xuất trong làng nghề thực hiện các biện pháp thu gom, xử lý nước thải, khí thải; đồng thời từng bước di dời các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng ra khỏi khu dân cư, gắn với quy hoạch cụm công nghiệp làng nghề.
Ông có thể cho biết bức tranh tổng thể về nước thải trên địa bàn tỉnh hiện nay?
Ông Vũ Văn Tưởng: Theo tổng hợp năm 2025, tổng lượng nước thải phát sinh trên địa bàn tỉnh là 528.785 m³/ngày đêm, tương đương gần 193 triệu m³/năm. Trong đó, nước thải sinh hoạt chiếm tỷ lệ cao nhất, với 38,15% là nước thải sinh hoạt nông thôn và 35,29% là nước thải sinh hoạt đô thị.
Nguồn phát sinh nước thải sinh hoạt chủ yếu vẫn là khu dân cư nông thôn, chiếm 51,95%, trong khi khu vực đô thị chiếm 48,05%. Những con số này phản ánh rõ quá trình đô thị hóa diễn ra rất nhanh trong thời gian qua.
Tỉnh Bắc Ninh đã đầu tư mạnh cho hệ thống quan trắc, với 19 trạm quan trắc không khí, 17 trạm quan trắc nước mặt, 41 trạm quan trắc tự động nước thải và 26 trạm quan trắc khí thải, qua đó nâng cao năng lực cảnh báo sớm, kiểm soát ô nhiễm.
Quản lý chất thải rắn sinh hoạt là vấn đề được người dân đặc biệt quan tâm. Bắc Ninh đang xử lý bài toán này như thế nào?
Ông Vũ Văn Tưởng: Hiện nay, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 752.265 tấn/năm, tương đương 2.061 tấn/ngày. Ở khu vực đô thị, tỷ lệ thu gom đạt 100%, trong đó lượng xử lý đạt 92,11%. Khu vực nông thôn có tỷ lệ thu gom 99,7%, xử lý đạt 93,5%.
Toàn tỉnh Bắc Ninh có 82 cơ sở xử lý CTRSH, xử lý khoảng 1.974 tấn/ngày, đạt 95,8% lượng phát sinh. Đáng chú ý, Bắc Ninh đã đầu tư 3 nhà máy xử lý rác công nghệ cao phát điện, cùng nhiều khu chôn lấp hợp vệ sinh và hệ thống lò đốt quy mô nhỏ.
Trong thời gian tới, tỉnh Bắc Ninh tiếp tục đẩy nhanh tiến độ 2 dự án nhà máy đốt rác phát điện đang triển khai, nhằm giảm dần chôn lấp, hướng tới kinh tế tuần hoàn.
Đối với chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại, công tác quản lý có gì đáng chú ý, thưa ông?
Ông Vũ Văn Tưởng: Tổng lượng chất thải rắn công nghiệp thông thường phát sinh khoảng 2.819 tấn/ngày, tương đương hơn 1 triệu tấn/năm. Tỷ lệ thu gom, xử lý đạt 100%, trong đó 80–88% được tái chế, tái sử dụng hoặc thu hồi năng lượng.
Đối với chất thải nguy hại, lượng phát sinh khoảng 280 tấn/ngày, riêng chất thải y tế nguy hại khoảng 10 tấn/ngày. Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 7 cơ sở được cấp phép xử lý CTNH, đảm bảo đáp ứng nhu cầu thực tế.
Trước tác động ngày càng rõ của biến đổi khí hậu, Bắc Ninh đã chuẩn bị như thế nào cho công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường?
Ông Vũ Văn Tưởng: Năm 2025, tỉnh Bắc Ninh tiếp tục chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu với nắng nóng kéo dài, mưa lớn bất thường, lũ lụt vượt mức lịch sử tại một số khu vực. Trước thực tế đó, tỉnh Bắc Ninh đã chủ động xây dựng các phương án phòng, chống thiên tai, nâng cấp hệ thống đê điều, cải thiện năng lực thoát nước đô thị và triển khai hệ thống cảnh báo sớm.
Đáng mừng là năm 2025, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh không xảy ra sự cố môi trường. Đồng thời, tỉnh Bắc Ninh đã tiếp nhận 18 lượt phản ánh của người dân về môi trường, tất cả đều được xử lý đạt 100%.
Xin cảm ơn ông!