Để từ Mùa Thống Nhất ấy, có thể hình dung về Mùa Độc Lập trước đó 30 năm, với cờ, hoa, nụ cười và nước mắt.
Quê ngoại tôi ở thôn Cộng Hòa, xã Dân Chủ, thuộc huyện Phú Xuyên của tỉnh Hà Tây cũ. Tên làng tên xã rất quen thuộc ở miền Bắc sau Cách mạng Tháng Tám. Những tháng năm tuổi thơ tôi còn bắt gặp dấu vết ngày độc lập đầu tiên đọng sâu nơi làng xóm và những nếp nhà vùng chiêm trũng miền Bắc xã hội chủ nghĩa thời ấy. Giao thông hào, hố bom, những khẩu hiệu trên tường vôi sân đình, hợp tác xã. Những tổ hợp tác, tổ dân quân, phụ nữ, phụ lão, thiếu nhi đêm ngày lao động sản xuất, thi đua cấy cày, đào đắp thủy lợi, trực chiến giặc trời...
Mùa Độc Lập, nhưng vẫn đạn bom. Anh em tôi từ Hà Nội về quê sơ tán, vẫn phải chui vào hầm thường xuyên. Nghe mảnh bom bi cắm phầm phập trên đầu, đạn pháo cao xạ ầm ào, hé ra thấy máy bay giặc cháy phừng phừng. Người chị cả của bà ngoại tôi, một ngày nhận giấy báo tử của hai người con sinh đôi từ chiến trường miền Nam gửi về. Đến giờ vẫn chưa biết các anh tôi đang nằm nơi đâu...
Mùa Độc lập, nhưng chưa thực sự hòa bình, vì giới tuyến còn cắt ngang dòng Bến Hải. Ở trong Nam, anh Hai tôi hy sinh trên dòng sông Trà Khúc quê hương khi mới 19 tuổi, đến nay vẫn chưa tìm được.
Chỉ đến Mùa Thống Nhất 1975, thì độc lập tự do mới thực vẹn tròn. Dẫu đói, khổ, nhưng an yên. Cả đất nước, mỗi cuộc đời chậm rãi, gắng gỏi vượt lên...
Chuyến đi Trường Sa hồi cuối tháng 6 năm 2022, chiêm ngắm 9 ngôi chùa trên quần đảo bão tố này, tôi chợt nhận ra tinh thần độc lập hiện diện trong mỗi nếp nâu thiền. Đó là gần như không trùng lặp về kiến trúc, kiểu dáng lẫn hoành phi, câu đối... Đó là những ngôi chùa thuần Việt, từ kiến trúc, kiểu dáng, chi tiết, dấu Quốc huy đóng trên đồ thờ, và in trên từng viên gạch, từng đại hồng chung, đến cửa võng, hoành phi câu đối thuần chữ Việt, và toàn bộ các pho tượng cũng thuần Việt từ gương mặt tới tỷ xích cơ thể. Và cả 9 ngôi chùa đều quay hướng về trái tim đất nước là Thủ đô Hà Nội. Cùng với những cụm không gian đình- đền - đài trên mỗi đảo, tôi như được trở lại những làng mạc Việt cổ ngàn xưa, giữa bốn bề sóng gió. Thinh không từng tiếng chuông vang pháp giới lẫn đời thường, trên những tầng cây phong ba vững chãi...
Để thấy dù đứng ở bất kỳ góc trời nào của Tổ quốc, thì vẫn luôn trọn vẹn bên mình một giang sơn Tổ quốc thu nhỏ, như ở giữa đại dương này.
Nhớ lần đầu ra Trường Sa tháng 4 năm 1998. Nhặt được trên tờ báo tường ở đảo Đá Lớn hai câu thơ: “Tuổi 20 chân đi không bén đất/Đám mây trời bay dưới ba lô”. Hay quá! Sau mới biết tác giả là nhà thơ quân đội Anh Ngọc. “Có một bận trong đời/Anh nhìn thấy Trường Sơn thật thấp/ Tuổi 20 chân đi không bén đất/ Đám mây trời bay dưới ba lô” (Thơ mùa xuân đọc lại giữa mùa thu). Nghĩ về sự lãng mạn pha lẫn khí phách của biết bao thế hệ ngàn năm qua thay nhau bồi đắp lên đất nước mình.
*
Nhìn vào lịch sử, bất kỳ nền Độc lập nào cũng đều phải tranh đấu và bồi đắp bằng máu, mồ hôi và nước mắt. Dân tộc nào, thời đại nào cũng vậy. Từ nền độc lập đầu tiên trong lịch sử loài người khi hai miền của Ai Cập cổ đại được thống nhất từ 3100 năm trước Công nguyên. Cho đến những quốc gia, vùng lãnh thổ đến nay vẫn chưa thể giành độc lập, như Palestine còn chìm trong ách chiếm đóng, giữa đạn bom, chết chóc.
Nước Việt ta suốt chiều dài lịch sử đã bao lần khẳng định độc lập một cách mãnh liệt. Không phải đợi đến bài thơ thần Nam quốc sơn hà Nam đế cư (năm 1076) của Lý Thường Kiệt mới là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên. Mà trước đó hàng ngàn năm, khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40-42) - cuộc khởi nghĩa đầu tiên thời kỳ phương Bắc đô hộ, dù thất bại nhưng đã chính là lời khẳng định ý chí độc lập sớm nhất, mở đầu cho truyền thống bất khuất của dân tộc ta. Gần hơn nữa, là chiến thắng của Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938), chấm dứt hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra một thời kỳ độc lập, tự chủ cho nước nhà - cũng được xem là tuyên ngôn độc lập hào hùng.
Lịch sử bốn ngàn năm của đất nước ta là cả một cuộc trường kỳ gian khổ với bao nhiêu chiến đấu, mất mát, hy sinh, chỉ để giành và giữ được niềm kiêu hãnh lớn lao nhất: Độc lập - Tự do!
Bởi vậy, Mùa Độc Lập của nước Việt, người Việt không chỉ là một ngày lễ, mà còn cuồn cuộn dòng cảm thức mênh mang tự hào cùng niềm kính ngưỡng, biết ơn lớn lao hướng về tiên tổ.
Độc lập, với chúng ta, không phải điểm dừng, mà chính là sự khởi đầu. Khởi đầu cho công cuộc chung tay đoàn kết dựng xây, phát triển, hội nhập, góp phần gìn giữ hòa bình nhân loại.
Biết biến giá trị của Độc lập thành sức mạnh đoàn kết to lớn để trở nên hùng cường và bền vững lâu dài, mới chính là giá trị và thước đo cuối cùng của một dân tộc.