![]() |
| Minh họa về tàu vũ trụ Voyager 2 khám phá không gian bên ngoài hệ mặt trời (Ảnh: NASA/Robert Lea (tạo bằng Canva) |
Để tiết kiệm năng lượng cho các cuộc thám hiểm giữa các vì sao tiếp theo, các kỹ sư tại Phòng thí nghiệm Động cơ Phản lực (JPL) của NASA đã ngừng hoạt động thí nghiệm hệ thống tia vũ trụ của Voyager 1 vào ngày 25/2 vừa qua. Vào ngày 24/3 sắp tới, họ sẽ tắt thiết bị hạt tích điện năng lượng thấp trên tàu Voyager 2.
Được phóng vào năm 1977 và mang theo cùng một bộ mười thiết bị, Voyager 1 và Voyager 2 đã bay lên vũ trụ giữa các vì sao vào năm 2012 và 2018. Cả hai tàu vũ trụ đã đi được tổng cộng 29 tỷ dặm để trở thành những vật thể do con người chế tạo bay xa nhất tính từ Trái đất.
"Các tàu Voyager đang ở trong không gian xa thẳm kể từ khi phóng và chúng tôi muốn duy trì điều này càng lâu càng tốt. Nhưng nguồn điện trên tàu đang cạn kiệt. Nếu chúng tôi không tắt một thiết bị trên mỗi tàu Voyager ngay bây giờ, có lẽ chúng chỉ tồn tại vài tháng nữa thôi", giám đốc dự án Voyager tại Phòng thí nghiệm Động cơ phản lực NASA Suzanne cho biết.
Cuộc sống ngoài hệ mặt trời
![]() |
| Đồ họa của NASA cho thấy vị trí của tàu vũ trụ Voyager trong không gian giữa các vì sao. (Ảnh: NASA/JPL-Caltech) |
Cả hai tàu vũ trụ Voyager đều có hệ thống năng lượng dựa trên việc tạo ra điện từ nhiệt phát ra qua quá trình phân rã của đồng vị phóng xạ plutonium. Hệ thống năng lượng đồng vị phóng xạ này mất khoảng 4 watt điện từ Voyager 1 và Voyager 2 mỗi năm. Vào những năm 1980, một số thiết bị trên cả hai tàu vũ trụ đã bị tắt do hai tàu Voyager đều đã hoàn thành cuộc điều tra các hành tinh khổng lồ của hệ mặt trời, điều này đã thúc đẩy tuổi thọ của chúng.
Để tiết kiệm năng lượng, các nhà điều hành NASA đã tắt thí nghiệm khoa học plasma của Voyager 2 vào tháng 10 năm 2024. Thí nghiệm này nhằm mục đích đo lượng plasma chảy qua nó và theo hướng nào. Thiết bị Voyager 2 đã thu thập dữ liệu hạn chế trong những năm trước khi ngừng hoạt động do hướng của Voyager 2 liên quan đến dòng plasma bên ngoài hệ mặt trời.
Thiết bị khoa học plasma của Voyager 1 đã ngừng hoạt động vào năm 1980 và đã bị tắt vào năm 2007 để tiết kiệm năng lượng.
Gần đây nhất, NASA đã tắt hệ thống tia vũ trụ của Voyager 1 vào cuối tháng 2. Dữ liệu từ bộ ba kính thiên văn được thiết kế để nghiên cứu tia vũ trụ là một phần không thể thiếu trong quyết định của nhóm khoa học Voyager bởi vì Voyager 1 đã thoát khỏi nhật quyển, phạm vi ảnh hưởng của mặt trời ở rìa hệ mặt trời.
Thiết bị đo hạt tích điện năng lượng thấp của Voyager 2 sẽ ngừng hoạt động vào cuối tháng 3, có chức năng đo các ion, electron và tia vũ trụ khác nhau có nguồn gốc từ hệ mặt trời và thiên hà của chúng ta.
"Tàu vũ trụ Voyager đã vượt xa sứ mệnh ban đầu của chúng là nghiên cứu các hành tinh bên ngoài", nhà khoa học chương trình Voyager Patrick Koehn cho biết. "Mỗi bit dữ liệu bổ sung mà chúng tôi thu thập được kể từ đó không chỉ là phần thưởng khoa học có giá trị cho vật lý mặt trời, mà còn là minh chứng cho kỹ thuật mẫu mực đã được đưa vào Voyager — bắt đầu từ gần 50 năm trước và tiếp tục cho đến ngày nay".
Cả hai tàu vũ trụ đều có ba thiết bị hoạt động, giảm xuống còn hai vào năm 2026. Người ta hy vọng Voyager 1 và Voyager 2 sẽ mang theo một thiết bị hoạt động vào những năm 2030. Tuy nhiên, những tình huống không lường trước có thể xảy ra và thay đổi những kế hoạch này.
"Mỗi phút mỗi ngày, Voyager khám phá một khu vực mà chưa có tàu vũ trụ nào từng đi qua trước đây. Chúng tôi đang nỗ lực hết sức, làm mọi cách có thể để đảm bảo Voyager 1 và 2 tiếp tục hành trình tiên phong trong thời gian dài nhất có thể," nhà khoa học dự án Voyager tại JPL Linda Spilker cho biết.

