Thưa ông, Việt Nam đã từng có thời kỳ phát triển mạnh mẽ hệ thống thuỷ điện trên các dòng sông, nhất là tại miền Trung và Tây Nguyên. Trên một dòng sông ngắn nhưng có tới nhiều công trình thuỷ điện cùng tồn tại, điều này tác động như nào đến môi trường, dòng chảy tự nhiên và việc điều tiết dòng chảy khi xảy ra mưa lớn?
TS Tô Văn Trường: Mục đích xây dựng thuỷ điện để phát điện, phòng chống lũ và điều tiết dòng chảy. Tuy nhiên, hồ chứa làm gián đoạn dòng chảy, giảm khả năng vận chuyển trầm tích. Điều này dẫn đến xói lở, thay đổi hình thái dòng chảy và suy giảm phù sa cho vùng đồng bằng hạ lưu. Môi trường sinh thái nước ngọt và các hệ sinh cảnh ven sông bị ảnh hưởng, nhất là đối với những lưu vực có giá trị đa dạng sinh học cao.
Điều chúng ta đang thấy hiện nay là tác động tích tụ theo chuỗi: càng nhiều hồ chứa trên cùng một dòng sông, càng cần một cơ chế điều phối chính xác, kịp thời và dựa trên dữ liệu khoa học. Thiếu yếu tố này, tác động tiêu cực lên môi trường và an toàn dòng chảy sẽ gia tăng.
Tác động nghiêm trọng nhất là việc làm đứt gãy dòng sông và hình thành các “đoạn sông chết”. Nhiều thủy điện đường dẫn như Đăk Mi 4, An Khê, hay Sêrêpốk 4A… giữ toàn bộ nước trong hồ rồi dẫn qua hầm sang vị trí khác, khiến các đoạn sông hạ du chân đập dài từ 3-10 km khô cạn hoàn toàn vào mùa khô. Hệ sinh thái, thủy sinh và sinh kế cộng đồng ven sông bị ảnh hưởng nặng nề.
Một vấn đề phức tạp khác là chuyển nước liên lưu vực, điển hình là thủy điện Đắk Mi 4 lấy nước từ sông Vu Gia và xả sang sông Thu Bồn. Việc này gây suy giảm mạnh dòng chảy mùa kiệt, làm mặn xâm nhập sâu tại cửa thu nước Cầu Đỏ nguồn cấp nước cho hơn 1 triệu dân Đà Nẵng, đồng thời khiến hàng chục nghìn hecta nông nghiệp Quảng Nam thiếu nước tưới.
Trong mùa mưa lũ, kỳ vọng thủy điện cắt lũ cho hạ du không đạt được như thiết kế. Đa số hồ chứa đơn mục tiêu ưu tiên phát điện nên dung tích phòng lũ thấp. Khi mưa lớn vượt dự báo, hồ đầy buộc phải xả đột ngột để đảm bảo an toàn đập, gây hiện tượng “lũ chồng lũ”. Đồng thời, việc điều tiết dòng chảy thất thường còn gây sạt lở bờ sông, bồi lắng hồ chứa và xói lở bờ biển do thiếu hụt phù sa.
Việc xây dựng thủy điện cũng kéo theo mất rừng đầu nguồn quy mô lớn, làm giảm khả năng sinh thủy và gia tăng rủi ro lũ quét, sạt lở. Công tác trồng rừng thay thế triển khai chậm và thiếu hiệu quả, nhiều nơi không còn quỹ đất để phục hồi rừng phòng hộ.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành quy trình vận hành liên hồ chứa, nhưng việc thực thi vẫn gặp khó khăn do dự báo khí tượng hạn chế, cơ chế giám sát chưa chặt và xung đột lợi ích giữa địa phương – doanh nghiệp.
Trong đợt mưa lũ kỷ lục ở miền Trung vừa qua có những ý kiến trái chiều nhau về tác động từ việc xả lũ của các công trình thuỷ điện dẫn đến tình trạng “lũ chồng lũ” cho hạ du? Ông có quan điểm như thế nào về vấn đề này?
TS Tô Văn Trường: Để đánh giá đúng bản chất, phải nhìn nhận mưa lũ vừa qua là một biến cố khí hậu cực đoan, khi lượng mưa vượt xa trung bình nhiều năm và thậm chí vượt quá dung tích thiết kế của một số hồ chứa. Trong trường hợp này, dù có hay không có thuỷ điện, lũ lớn vẫn sẽ xảy ra.
Tuy vậy, cũng cần thẳng thắn: một số hồ chứa chưa vận hành thật sự hiệu quả, nhất là việc duy trì dung tích phòng lũ hoặc cảnh báo trước khi xả. Những yếu tố này có thể khiến người dân hạ du cảm nhận rõ rệt tình trạng “lũ tự nhiên” cộng hưởng với “lũ do vận hành hồ chứa”, nghĩa là thiên tai cộng với nhân tai.
Khoa học thuỷ văn cho thấy, thuỷ điện có thể góp phần giảm đỉnh lũ khi được vận hành đúng quy trình liên hồ, trên cơ sở dự báo khí tượng thủy văn đáng tin cậy. Nhưng nếu vận hành thiếu chủ động, hoặc thông tin đến chính quyền và người dân không kịp thời, rủi ro ở hạ du sẽ tăng lên, dù mức độ khác nhau theo từng lưu vực.
Quan điểm của tôi là cần đánh giá minh bạch bằng số liệu và bằng mô hình thủy lực. Không nên cực đoan quy trách nhiệm toàn bộ cho thuỷ điện, nhưng càng không thể bỏ qua những hạn chế trong khâu vận hành, phối hợp và thông tin. Đây là yếu tố con người có thể cải thiện được nếu có quyết tâm và hiểu biết về các tác động của thuỷ điện được và mất.
Trong bối cảnh trên cùng một dòng sông có nhiều công trình thuỷ điện cùng hoạt động, theo ông cần có giải pháp như nào để giảm thiểu thấp nhất thiệt hại do thuỷ điện xả lũ đến hạ du cũng như đảm bảo hài hoà nhất lợi ích giữa người dân hạ du với các công ty thuỷ điện?
TS Tô Văn Trường: Trong bối cảnh thiên tai ngày càng phức tạp, theo tôi có ba nhóm giải pháp mang tính nền tảng và cần được triển khai đồng bộ:
Thứ nhất là phải hoàn thiện quy trình vận hành liên hồ chứa trên cơ sở khoa học và dự báo hiện đại, phải cập nhật quy trình vận hành phù hợp với thực tế biến đổi khí hậu. Các thông số thiết kế của 10–20 năm trước không còn phù hợp với tình trạng mưa cực đoan hiện nay.
Để làm được việc này cần tăng cường áp dụng mô hình dự báo mưa – lũ theo thời gian thực, tích hợp dữ liệu radar, vệ tinh, và mạng trạm tự động để dự báo chính xác dung lượng lũ vào hồ. Yêu cầu các hồ chứa duy trì dung tích đón lũ tối thiểu trong suốt mùa mưa, không để tình trạng tích đầy nước để ưu tiên phát điện. Ngoài ra, cần thiết lập một cơ quan điều phối vận hành trên toàn lưu vực đóng vai trò “nhạc trưởng”, có quyền ra lệnh điều tiết liên hồ dựa trên hệ thống dữ liệu tập trung và công cụ hỗ trợ ra quyết định, tránh tình trạng các hồ “mạnh ai nấy xả”. Đồng thời, dữ liệu vận hành của các hồ phải được công khai theo quy định mới của Luật Tài nguyên nước 2023.
Giải pháp thứ hai, theo tôi là minh bạch hóa dữ liệu và chuẩn hóa hệ thống cảnh báo cho hạ du. Mỗi đợt xả lũ phải có thông báo sớm, liên tục và chính xác tới chính quyền cấp xã, huyện, cũng như người dân sinh sống ven sông. Thông tin vận hành hồ chứa cần được công bố rộng rãi, tạo điều kiện cho cơ quan quản lý và nhà khoa học kiểm chứng, đánh giá.
Bên cạnh đó, cần đầu tư hệ thống loa cảnh báo, tin nhắn tự động và bản đồ ngập lụt để người dân chủ động ứng phó phương án di dời sơ tán. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, minh bạch thông tin là yếu tố làm giảm rủi ro trực tiếp.
Giải pháp thứ ba cũng rất quan trọng là điều chỉnh cơ chế chính sách để bảo đảm lợi ích cộng đồng. Tôi cho rằng cần đánh giá lại toàn bộ hệ thống thuỷ điện nhỏ, dự án nào gây tác động lớn đến môi trường và an toàn thì phải xem xét điều chỉnh hoặc dừng hoạt động. Xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định, các phương án phòng tránh thiên tai và bản đồ phòng tránh rủi ro thiên tai.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các qui định pháp luật liên quan đến phí khi sử dụng dung tích hữu ích của hồ trong phòng chống giảm nhẹ thiên tai hay sử dụng nước hồ cho các mục đích khác cũng như việc bồi thường thiệt hại khi để xảy ra lũ chồng lũ. Thiết lập cơ chế tài chính buộc các doanh nghiệp thuỷ điện đóng góp vào quỹ phục hồi sinh thái và quỹ phòng chống thiên tai của địa phương. Và ngược lại, tại một số lưu vực sông không có nhiều dung tích phòng lũ, thậm chí phải nghĩ đến cơ chế “mua lại” một phần dung tích phát điện dành cho phòng lũ trong các tình huống cực đoan. Tăng cường thanh tra, kiểm tra an toàn đập và trách nhiệm vận hành; xử lý nghiêm các trường hợp xả lũ không đúng quy trình gây thiệt hại cho hạ du.
Tổng hợp các giải pháp này cho thấy nguyên tắc cốt lõi cần hướng tới là bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của người dân; theo đó, thủy điện phải dịch chuyển từ mô hình “đơn mục tiêu” sang “đa mục tiêu”, trong đó chức năng cắt lũ và đảm bảo an toàn hạ du được đặt ngang hàng với mục tiêu phát điện, và chi phí cho sự chuyển đổi này cần được hỗ trợ một cách thỏa đáng nhằm bảo đảm công bằng cho doanh nghiệp cũng như lợi ích chung của xã hội.
Xin cảm ơn ông!