Trong dòng chảy không ngừng của điện ảnh Việt Nam, phim về đề tài chiến tranh và cách mạng luôn giữ một vị trí đặc biệt. Không chỉ truyền tải những trang sử hào hùng, các tác phẩm điện ảnh này còn đóng vai trò như tấm gương phản chiếu tâm lý dân tộc, những ám ảnh và chuyển biến sâu sắc về mặt xã hội.
Hào hùng sử thi
Những tác phẩm nổi bật chất sử thi, như Chung một dòng sông (1959), Bài ca ra trận (1973) hay Cánh đồng hoang (1979) đã khắc họa hình tượng người chiến sĩ anh dũng, thể hiện khí phách kiên cường của dân tộc trước kẻ thù. Đây là thời kỳ mà điện ảnh chiến tranh đã đóng góp xuất sắc vào công cuộc xây dựng và đấu tranh thống nhất đất nước...
Các bộ phim trong giai đoạn này thường tập trung vào sự kiện, chiến công và tính đại thể. Nhân vật chính đa phần là những người lính hiện thân cho ý chí của cộng đồng, chứ chưa đi sâu vào thân phận cá nhân hay những tổn thương tinh thần. Chiến tranh được tái hiện như một trang sử hào hùng, với kẻ thù rõ ràng và kết quả vinh quang.
Đặc biệt nhất là Chung một dòng sông (đạo diễn Nguyễn Hồng Nghi và Phạm Hiếu Dân) được ghi nhận là bộ phim truyện nhựa đầu tiên của điện ảnh Việt Nam. Bộ phim xoay quanh chuyện tình của Hoài (NSƯT Phi Nga) và Vận (Nghệ sĩ Mạnh Linh) từ kháng chiến chống Pháp. Tình yêu của họ bị ngăn cách bởi đôi bờ sông Bến Hải sau Hiệp định Genève năm 1954.
Mối nhân duyên bị chia cắt của Vận và Hoài đại diện cho sự chia ly của đồng bào ruột thịt hai miền Bắc-Nam. Bởi vậy, Chung một dòng sông không đơn thuần là bộ phim tình cảm giữa thời chiến, mà là một tác phẩm giàu chất ẩn dụ, phản ánh sâu sắc những biến động xã hội và cảm thức cộng đồng trong một giai đoạn lịch sử đầy thương tổn của dân tộc.
Tác phẩm Bài ca ra trận của đạo diễn Trần Đắc cũng đặc biệt không kém khi đánh dấu giai đoạn kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhân vật chính là Nam (diễn viên Dũng Nhi) chàng sinh viên 22 tuổi gác lại suất đi du học để nhập ngũ. Trong một trận chiến đấu, Nam vì giải cứu đồng đội đã bị mảnh bom làm mù hoàn toàn mắt trái. Nhưng anh vẫn kiên quyết không lui về tuyến sau.
Như câu thoại của Nam nói với Lê (NSƯT Thanh Loan) khi cả hai đang ngắm vệ tinh bay ngang qua bầu trời: “Ước vọng con người tới đâu, thì khả năng con người vươn tới đấy”, Bài ca ra trận là bộ phim về ước vọng và khả năng vượt qua nghịch cảnh đầy phi thường của nhân dân Việt Nam giữa lửa đạn chiến tranh.
Với người lính trẻ Nam và vô vàn thanh niên Việt Nam lúc đó, “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Còn cô sinh viên Lê đại diện cho khát vọng vươn tới tri thức: Từ một cô học trò nông thôn đã hòa nhập vào nền giáo dục đa văn hóa tại nước ngoài. Dù trong trang phục mô-đen hiện đại, nhưng cô vẫn giữ trọn tấm lòng son dạ sắt dành cho người lính Nam và quê hương của mình.
Trăn trở thời hậu chiến
Những bộ phim đề tài cách mạng đã thay đổi rõ rệt trong giai đoạn hậu chiến, khi mọi người bắt đầu nhìn lại chiến tranh với khoảng cách thời gian nhất định.
Điện ảnh giai đoạn này dần dịch chuyển từ những câu chuyện đại thể, sử thi sang những mảnh đời mang tính cá nhân và riêng tư hơn. Các bộ phim sau năm 1975 đã chú ý đến con người cá nhân, thế giới nội tâm và tính cách của họ. Thử thách giờ đây là làm sao để hòa nhập vào nhịp sống mới nhưng không đánh mất chính mình và giá trị truyền thống tốt đẹp đậm chất Việt.
Những tác phẩm giai đoạn này đã phân rã và tái cấu trúc hình tượng người lính, đào sâu vào tính người phức tạp và đa chiều của những người vừa từ chiến trường trở về; hay sự chật vật của họ khi cố hòa nhập với cuộc sống hậu chiến trong thời kỳ đầu mở cửa.
Khác với hình tượng anh hùng tập thể trước đó, các nhân vật trong dòng phim hậu chiến là những cá thể đầy mâu thuẫn, hoài nghi và tổn thương. Đây chính là bước chuyển từ “sử thi chiến thắng” sang “bi kịch hiện sinh”- một hành trình phản ánh chiều sâu nhân bản trong tư duy nghệ thuật.
Một đại diện nổi bật thời kỳ này là phim Tướng về hưu (1988) của đạo diễn Nguyễn Khắc Lợi. Được chuyển thể từ truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, bộ phim là một bi kịch đậm chất hậu chiến, phản ánh sự đổ vỡ giá trị con người khi đất nước vừa mở cửa. Nhân vật ông Thuấn (Nghệ sĩ Mạnh Linh) – một vị tướng về hưu, từng sống trọn đời vì lý tưởng cách mạng, nay lạc lõng giữa chính gia đình mình: vợ đãng trí, con trai nhu nhược, con dâu làm giàu bất chấp đạo đức - một bác sĩ phụ sản nuôi chó bằng nhau thai để bán lấy tiền.
Trong một xã hội chạy theo kinh tế thị trường, Tướng về hưu là một khúc bi ca về sự mất mát giá trị trong cơn lốc đổi thay – nơi mà chiến tranh không còn mang hình hài bom đạn, mà là cuộc chiến thầm lặng giữa đạo đức và đồng tiền, giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người với lương tâm của chính mình.
Và cân bằng
Tuy nhiên, theo thời gian, góc nhìn tiêu cực và bi ai trong thể loại phim này đã dần biến mất, để lại sự cân bằng giữa tính hào hùng dân tộc và nỗi đau cá nhân trong các tác phẩm điện ảnh trong thế kỷ 21. Điều này có thể thấy qua những bộ phim nổi bật như Đừng đốt (2009), Mùi cỏ cháy (2012), Người trở về (2015), Đào, phở và piano (2023) hay gần đây nhất là Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối (2025).
Địa đạo... của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên là một trường hợp ấn tượng vì là bộ phim chiến tranh hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất đạt doanh thu trăm tỷ (cụ thể là 172 tỷ đồng). Đây còn là tác phẩm phim cách mạng đầu tiên được sản xuất hoàn toàn bằng nguồn vốn tư nhân. Một bước chuyển mình đầy mới mẻ và đáng chú ý của nền điện ảnh Việt khi các nhà đầu tư và nhà làm phim đã bỏ ra hàng chục tỷ đồng và hơn chục năm nuôi dưỡng ý tưởng để cho ra đời một bộ phim chiến tranh có sức nặng, gợi nhắc người trẻ về một thời kỳ không quên của dân tộc.
Bộ phim khắc họa thành công hình tượng những người lính nhân dân chân chất, gan dạ, anh dũng, nhưng cũng mang trong mình đầy khiếm khuyết và lỗi lầm như bao người khác. Đây là một yếu tố thường thấy trong những bộ phim chiến tranh Việt Nam thời hiện đại, tăng thêm độ lớp lang, phức tạp cho tác phẩm. Đạo diễn Bùi Thạc Chuyên không ngần ngại gạt bỏ lớp “màn phủ” lãng mạn hóa chiến tranh để đi sâu vào chất người của người lính du kích khắc kỷ khi đối diện sinh tử. Ông cho phép những nhân vật người lính của mình hoảng sợ, căng thẳng, tức giận đến mù quáng khi chứng kiến người đồng đội của mình ngã xuống.
Tôi cho rằng điện ảnh chiến tranh Việt Nam, từ ánh hào quang chiến thắng đến bóng tối của hậu chiến, từ tượng đài tập thể đến những thân phận đơn độc, là hành trình phản ánh sự trưởng thành của nghệ thuật và của xã hội. Trong một thế giới mà chiến tranh có thể không còn là tiếng súng, mà là ký ức, là phân biệt, là bất công, thì những bộ phim này vẫn còn nguyên giá trị.
Đã 80 năm Quốc khánh và 50 năm kể từ ngày Thống nhất non sông, nhưng đề tài chiến tranh vẫn còn rất nhiều chất liệu chưa khai thác, đặc biệt là từ góc nhìn những người trẻ. Điện ảnh Việt Nam hiện đang chứng kiến một thế hệ đạo diễn và khán giả trẻ quan tâm đến việc khám phá ký ức, chất vấn những huyền thoại, và tìm kiếm sự thật cá nhân trong bối cảnh lịch sử. Điều này mở ra hướng đi mới cho dòng phim chiến tranh – không chỉ là sự hồi tưởng, mà còn là tái hiện lại một cách trung thực, sắc sảo và đa chiều.
Chúng nhắc nhở chúng ta rằng: để thực sự bước ra khỏi chiến tranh, cần có sự can đảm nhìn lại nó bằng nghệ thuật, bằng cảm xúc, và bằng sự trung thực không né tránh, bởi nó là một tấm gương phản chiếu lịch sử và bản sắc dân tộc.
Dù hạn chế về kỹ thuật làm phim từ gần bảy mươi năm trước, như tiếng thoại nhiều lúc bị nghẹt, hình ảnh cũ kỹ với nhiều vết trầy xước, Chung một dòng sông vẫn giữ được sức hút nhờ vào nhịp kể chậm rãi và những chi tiết đời thường được ghi lại một cách chân thật. Như dòng sông âm thầm chảy qua bao thế hệ, bộ phim cũng lặng lẽ ghi lại đời sống bên bờ nước: những buổi chèo đò, giặt giũ, trao đổi hàng hóa, những ánh mắt đợi chờ hay nuối tiếc - tạo nên một bức tranh giàu tính nhân văn về những tháng ngày đặc biệt của dân tộc.