Google News

Học và dạy tiếng Anh hiệu quả đều nên bắt đầu từ tư duy và thái độ

SVO - Với mục đích có thêm ý kiến về chủ đề để tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học ở Việt Nam, Chuyên trang Sinh Viên Việt Nam, Báo Tiền Phong xin giới thiệu cuộc trò chuyện giữa phóng viên với giảng viên tiếng Anh, chuyên gia nghiên cứu giáo dục Đỗ Cao Sang.

anh-1.jpg
Chuyên gia nghiên cứu giáo dục Đỗ Cao Sang.

Đã có rất nhiều chuyên gia chia sẻ về cách học tiếng Anh hiệu quả, là một người từng giảng dạy tiếng Anh tại trường đại học, được nhận học bổng thạc sĩ về chuyên ngành giáo dục và sư phạm tiếng Anh tại Mỹ và Úc, ông có quan điểm như thế nào về vấn đề này?

Ông Đỗ Cao Sang: Theo tôi, mọi chia sẻ nghiêm túc về cách học và dạy tiếng Anh hiệu quả đều nên bắt đầu từ tư duy và thái độ, sau đó mới bàn đến công cụ và phương pháp. Tiếc rằng, trên thực tế, phần lớn các bài viết, hội thảo và khóa học hiện nay lại đi theo chiều ngược lại: tập trung gần như toàn bộ vào kỹ thuật, giáo trình, app học, lộ trình, phương pháp mới… bởi đó là những thứ dễ nhìn thấy, dễ mô tả và dễ triển khai.

Nhưng học tiếng Anh – cũng như vô vàn việc quan trọng khác trong đời sống – không thất bại vì thiếu công cụ, mà vì sai tư duy và lệch thái độ. Một người học với tâm thế nôn nóng, vụ lợi, muốn “đi tắt đón đầu”, muốn kết quả nhanh mà không chấp nhận tích lũy dài hạn, thì dù có trong tay phương pháp tối ưu nhất cũng khó đi xa. Ngược lại, một người có tư duy đúng về bản chất của việc học ngôn ngữ, có thái độ bền bỉ, khiêm tốn và kiên nhẫn, thì công cụ dù đơn giản vẫn có thể tạo ra kết quả bền vững.

Liên tưởng rộng hơn, ta sẽ thấy vấn đề này không chỉ tồn tại trong giáo dục ngoại ngữ. Chúng ta đang nói rất nhiều về chuyển đổi số trong quản lý nhà nước, về cải tổ giáo dục, về hạ tầng, phần mềm, dữ liệu, mô hình mới. Tuy nhiên, suy cho cùng, tư duy và thái độ của nhân viên công quyền, của giáo viên và học sinh mới là yếu tố quyết định thành bại. Công nghệ không thể thay thế tinh thần trách nhiệm. Hạ tầng không thể cứu vãn một tư duy trì trệ. Phương pháp không thể phát huy nếu người thực thi thiếu khát vọng học hỏi và thay đổi.

Tiếc thay, tư duy và thái độ lại là những thứ khó đo lường, khó chuẩn hóa và càng khó cải tạo trong thời gian ngắn. Chính vì vậy, người ta thường né tránh chúng và dồn toàn bộ năng lượng vào những gì hữu hình: công cụ, mô hình, phương pháp, cơ sở vật chất. Đổi mới dạy và học tiếng Anh cũng đi theo quán tính ấy.

Bàn về phương pháp, tôi nhớ đến câu nói nổi tiếng của John Dewey: “Vấn đề không phải là mới hay cũ, mà chúng ta phải trả lời câu hỏi đâu thực sự là khoa học, thực sự là giáo dục.” Câu nói ấy đặc biệt đúng với lĩnh vực dạy và học ngoại ngữ. Không nên thần thánh hóa phương pháp mới, cũng không nên bảo thủ với phương pháp cũ. Câu hỏi cốt lõi chỉ nên là: đâu là cách học và dạy tiếng Anh phù hợp với quy luật tự nhiên của việc tiếp thu ngôn ngữ, phù hợp với tâm lý người học và có hiệu quả lâu dài?

Chỉ khi quay trở lại với tư duy đúng và thái độ đúng, mọi công cụ và phương pháp mới có đất để phát huy giá trị thực sự của chúng.

Ông có thể chia sẻ một số phương pháp học tiếng Anh hiệu quả trên thế giới hiện nay có thể áp dụng vào Việt Nam?

Ông Đỗ Cao Sang: Thế giới tồn tại 9 kiểu dạy và học ngôn ngữ phổ biến sau:

1. Grammar–Translation (Ngữ pháp – Dịch)
Người học tập trung vào học quy tắc ngữ pháp, dịch câu, dịch văn bản. Phù hợp với thi cử, đọc hiểu học thuật nhưng yếu kỹ năng nghe – nói, xa rời ngôn ngữ sống.

2. Audio-Lingual (Nghe – Lặp – Phản xạ)
Học qua mẫu câu, luyện nghe và lặp lại để hình thành phản xạ. Giúp phát âm và phản xạ nhanh, nhưng dễ máy móc, thiếu tư duy ngôn ngữ sâu.

3. Communicative Language Teaching – CLT (Giao tiếp)
Lấy giao tiếp làm trung tâm, ưu tiên nói và tương tác. Tạo sự tự tin, nhưng nếu thiếu nền tảng từ vựng – cấu trúc thì giao tiếp dễ hời hợt.

4. Task-Based Learning (Học qua nhiệm vụ)
Ngôn ngữ được học thông qua việc hoàn thành các nhiệm vụ thực tế. Tự nhiên, thực dụng, nhưng khó triển khai với người mới bắt đầu.

5. Immersion (Tắm ngôn ngữ)
Người học “ngập” hoàn toàn trong môi trường ngôn ngữ đích. Hiệu quả cao nếu đủ thời gian và môi trường, nhưng tốn kém và không phổ cập.

6. Input-based / Comprehensible Input (Học qua đầu vào)
Tập trung nghe – đọc nội dung dễ hiểu, đủ nhiều. Phù hợp với quy luật tự nhiên của ngôn ngữ, nhưng đòi hỏi kiên nhẫn dài hạn.

7. Output-based (Học qua nói – viết)
Nhấn mạnh việc buộc người học sản sinh ngôn ngữ. Giúp nhận ra lỗ hổng kiến thức, nhưng dễ gây áp lực nếu nền tảng yếu.

8. Exam-oriented (Luyện thi)
Thiết kế để đạt điểm cao nhanh. Hiệu quả ngắn hạn, nhưng thường tách rời năng lực ngôn ngữ thực. Việt Nam thường sa đà vào lối học này.

9. Self-directed / Lifelong Learning (Tự học – học suốt đời)
Người học làm chủ tiến trình, công cụ chỉ là phương tiện. Bền vững nhất, nhưng đòi hỏi tư duy và thái độ đúng.

Tuy nhiên, tôi nhất quán quan điểm rằng trong 9 kiểu trên, không có phương pháp “tối thượng”. Chỉ có phương pháp phù hợp với mục tiêu, giai đoạn và tư duy người học. Tư duy – thái độ đúng mới quyết định phương pháp nào phát huy hiệu quả.

Theo quan điểm của ông, đâu là những rào cản để tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học ở Việt Nam? Cách khắc phục là gì?

Ông Đỗ Cao Sang: Trong nhiều năm qua, mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học Việt Nam được nhắc đến thường xuyên, từ chiến lược quốc gia đến các chương trình cải cách cụ thể. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn khá khiêm tốn so với kỳ vọng xã hội. Nguyên nhân không nằm chủ yếu ở thiếu giáo trình, thiếu công nghệ hay thiếu mô hình mới, mà sâu xa hơn, nằm ở những rào cản mang tính tư duy, hệ thống và văn hóa giáo dục.

Trước hết, tiếng Anh ở Việt Nam vẫn bị nhìn nhận chủ yếu như một môn học, chứ chưa được coi là một công cụ tư duy và giao tiếp. Khi đã là môn học, tiếng Anh buộc phải tuân theo logic điểm số, thi cử và thành tích. Người học học để làm bài, để qua kỳ thi, chứ không học để sử dụng trong đời sống và học tập lâu dài. Sự “môn học hóa” này khiến ngôn ngữ bị tách khỏi môi trường sống tự nhiên của nó.

Bên cạnh đó là tâm lý nóng vội của xã hội. Nhiều phụ huynh và người học kỳ vọng kết quả nhanh, chứng chỉ sớm, trong khi việc hình thành một ngôn ngữ thứ hai thực chất là quá trình tích lũy bền bỉ kéo dài hàng chục năm. Tâm lý đốt cháy giai đoạn vô tình tạo áp lực lên nhà trường và giáo viên, làm méo mó mục tiêu giáo dục ban đầu.

Một rào cản quan trọng khác nằm ở đội ngũ giáo viên. Phần lớn giáo viên hiện nay được đào tạo để dạy tiếng Anh như một môn học, chứ chưa được chuẩn bị đầy đủ để sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ giảng dạy liên môn. Khi giáo viên chưa tự tin dùng tiếng Anh như công cụ làm việc hằng ngày, rất khó kỳ vọng học sinh coi tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai thực sự.

Chương trình và hệ thống kiểm tra – đánh giá cũng góp phần duy trì tình trạng này. Nội dung học còn nặng ngữ pháp và kỹ thuật làm bài, trong khi việc đánh giá năng lực sử dụng ngôn ngữ thực tế lại mờ nhạt. Thi cử đang đo khả năng làm bài nhiều hơn là khả năng hiểu, diễn đạt và tư duy bằng tiếng Anh.

Ngoài nhà trường, môi trường ngôn ngữ gần như trống vắng. Gia đình, truyền thông, thư viện và sinh hoạt cộng đồng ít tạo điều kiện để tiếng Anh hiện diện một cách tự nhiên. Ngôn ngữ không được dùng hằng ngày thì khó có thể trở thành ngôn ngữ thứ hai đúng nghĩa.

Muốn vượt qua những rào cản ấy, điều quan trọng nhất là chuyển đổi tư duy ở tầm hệ thống. Tiếng Anh cần được xác định là công cụ tiếp cận tri thức, chứ không chỉ là nội dung giảng dạy. Song song với đó là chiến lược đào tạo lại giáo viên theo hướng dạy học tích hợp bằng tiếng Anh, cải cách đánh giá theo năng lực sử dụng thực tế, và xây dựng hệ sinh thái tiếng Anh gắn với gia đình – nhà trường – cộng đồng.

Tiếng Anh chỉ có thể trở thành ngôn ngữ thứ hai khi chúng ta chấp nhận một lộ trình dài hạn, kiên nhẫn, không chạy theo phong trào. Tư duy giáo dục cần thay đổi trước, con người cần thay đổi trước, rồi khi ấy, mọi công cụ, chương trình và công nghệ mới có cơ hội phát huy giá trị thực sự.

chung-ket-unlockthielts6.jpg
Vòng chung kết cuộc thi Hùng biện tiếng Anh liên trường Unlock The IELTS 2025 do Báo Tiền Phong phối hợp tổ chức vào tháng 11/2025. Ảnh: Lê Vượng

Quan sát đề thi tiếng Anh tốt nghiệp THPT mấy năm vừa qua, ông có tư vấn gì cho các bạn học sinh sắp thi vào năm 2026 về môn thi tiếng Anh?

Ông Đỗ Cao Sang: Đề thi tiếng Anh tốt nghiệp THPT cho thấy đòi hỏi về năng lực đọc hiểu, vốn từ vựng và kiến thức ngữ pháp ngày càng cao. Các bạn không nên giới hạn kiến thức ở giáo trình nhà trường giảng dạy. Hãy nghe và đọc tin tức thời sự qua đài báo như Vietnam News, CNN, BBC, VOA để tích lũy thêm từ vựng. Từ vựng là vấn đề then chốt của mọi ngôn ngữ. Người có nhiều từ vựng đa dạng chủ đề, biết sử dụng đúng lúc đúng chỗ chính là người giỏi ngôn ngữ.

Muốn chuẩn bị cho môn tiếng Anh, các bạn phải làm việc ấy từ xa. Nghĩa là ta phải học đều đặn, bền bỉ không dừng từ cấp 2, muộn nhất cũng phải từ lớp 10 mới có thể tự tin làm bài thi tốt nghiệp THPT. Tiếng Anh là thứ không thể học gấp rút, hoặc ôn tủ, khoanh vùng như các môn khác.

Trân trọng cảm ơn ông!